QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM LỊCH SỬ VIỆT
“Đọc thấy thấm thía, tăng thêm lòng yêu nước nồng nàn …”
Bài và hình: Thanh Phong/Viễn Đông
GARDEN GROVE – Vào chiều Chủ Nhật, ngày
31-3-2013 nhà báo Đỗ Tiến Đức, ông Hoa Thế Nhân, ông Nguyễn Tấn Lạc,
nhà thơ Vũ Lang và nhà thơ Xuân Chung đã tổ chức ra mắt sách “Lược Sử
Việt Nam” (biên khảo) và “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt (tái bản) của nhà biên
khảo lịch sử Phạm Trần Anh tại Thư Viện Việt Nam nằm trên đường
Westminster, thành phố Garden Grove.
Hơn 100 đồng hương tham dự trong đó có
giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, ông Vũ Văn Tùng (Chủ Tịch Văn Bút
Việt Nam Hải Ngoại) và phu nhân, Mục sư David Huỳnh (Tổng Giám Đốc Nha
Tuyên Úy Hoa Kỳ), Chánh án Nguyễn Trọng Nho, Đốc Sự Lê Ngọc Diệp (Chủ
Tịch Ủy Ban Giám Sát Trung Ương Liên Minh Dân Chủ Việt Nam) và phu nhân,
giáo sư Phan Đa Văn, ông Trần Đức Hân (Phó Chủ Tịch Văn Bút Trung Tâm
Tây Nam Hoa Kỳ), ông Bùi Đức Uyển (Hội Trưởng Bưởi – Chu Văn An), một số
đồng môn Quốc Gia Hành Chánh và đại diện một số hội đồng hương cũng như
các cơ quan truyền thông và một số đông thân hữu của tác giả.
Nhà thơ Vũ Xuân Chung và bà Đào Bích Ty phụ trách điều hợp chương trình.
Sau nghi thức chào cờ, mặc niệm, giáo sư Tiến Sĩ Cao Văn Hở lên giới thiệu tác phẩm “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt.”
Khi trình bày ý kiến của mình, ông Hở nêu
một quan điểm xem có vẻ mâu thuẫn khi ông tuyên bố ông không chống Đại
Hán, nhưng ngay sau đó ông tuyên bố người Đại Hán có máu xâm lược, không
để Việt Tộc chúng ta sống còn và tồn tại trên bản đồ thế giới. Diễn giả
cho rằng ông và nhà biên khảo Phạm Trần Anh có điểm tương đồng, cả hai
cùng được học đại học, nhưng “trường đại học của chúng tôi rất là thảnh
thơi, cái trường đại học đó là trường đại học ở Tây Phương, nhưng cái
đại học của nhà biên khảo Phạm Trần Anh đó là một đại học máu bởi anh bị
cộng sản cùm, tra tấn và tôi cho rằng cái đại học của anh nhiều khi còn
quý giá hơn cái đại học thực sự ở ngoài đời mà tôi đã nhận được.”
Tiến Sĩ Cao Văn Hở cũng ca ngợi những
người “đã đi vào trong những đại học máu đó, đi vào cái lò luyện thép để
mà sáng tạo, chính cái lò luyện thép đã tạo cho Phạm Trần Anh một sự
siêu việt về tinh thần.”
Ông Hở kết luận, “Nguồn Gốc Dân Tộc
Việt của nhà biên khảo Phạm Trần Anh là quyển sách tôi tâm đắc nhất. Khi
tôi đọc, tôi thấy thấm thía và tăng thêm lòng yêu nước nồng nàn…”
Kế tiếp, nhà báo Đỗ Tiến Đức cũng là
một cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh được mời lên giới thiệu tác giả.
Nhà báo Đỗ Tiến Đức đã trình bày thêm về một từ ngữ mà giáo sư Cao Văn
Hở đã nhắc đến trước đó. Ông Tiến nói, “Chúng tôi bị cộng sản bắt đi tù
chứ không có chuyện học tập gì cả, chúng tôi không bao giờ chấp nhận bốn
chữ Học Tập Cải Tạo.” Ông Đức cũng không đồng ý quan điểm của giáo sư
Hở rằng nhờ “lò luyện thép” của Việt Cộng mà ông Phạm Trần Anh có cơ hội
sáng tạo! Theo nhà báo Đỗ Tiến Đức, các cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành
Chánh Việt Nam Cộng Hòa được đào tạo để trở thành những nhà lãnh đạo đất
nước, nhưng tiếc rằng, sau khi được đào tạo thì không còn đất nước để
lãnh đạo, và những người như Phạm Trần Anh là rất hiếm trong hàng ngũ
Quốc Gia Hành Chánh.
Sau 1975, ông Phạm Trần Anh ở lại và
cùng một số người lập tổ chức chống cộng. Ông bị bắt tù nhiều năm, bị
trói tay ra sau lưng, chỉ nằm ngửa, có lúc bị đem ra sân cỏ hù bắn,
nhưng ông vẫn không chịu khai báo. Sau khi ở tù về, ông may mắn được
sống tại Sài Gòn. Ông đã đến các thư viện tìm tòi, nghiên cứu để viết
sách. Sau khi nói qua về tác giả, nhà báo Đỗ Tiến Đức mời ông Phạm Trần
Anh lên chia sẻ tâm tình.
Ông Anh cho biết ông bất đắc dĩ trở
thành nhà biên khảo lịch sử bởi nhiều nguyên do, nhưng nguyên do chính
là tấm lòng yêu nước trong con người ông, thôi thúc ông phải làm. Nhà
biên khảo Phạm Trần Anh đã làm mọi người say mê theo dõi những điều ông
trình bày, những tư tưởng và quan điểm, niềm hy vọng vào tương lai của
một dân tộc có Quốc Tổ Hùng Vương, có cội nguồn và chỉ có dân tộc Việt
mới có hai chữ “đồng bào,” vì chúng ta cùng một bào thai do Mẹ Âu Cơ đẻ
ra, mà các dân tộc khác không có. Nhà biên khảo Phạm Trần Anh ngỏ lời
cám ơn quý thân hữu, đồng môn và mọi người đã đến với ông trong một buổi
ra mắt sách cuối tuần nhiều bận rộn, nhất là trùng vào ngày Lễ Phục
Sinh.
Ngoài hai diễn giả chính và tác giả,
chương trình có phần phụ diễn văn nghệ của một số nghệ sĩ thuộc Câu Lạc
Bộ Tình Nghệ Sĩ như Xuân Thanh, Lan Hương và MC Ngọc Đăng. Có giọng ngâm
truyền cảm của nhà thơ Hà Phương, Bích Ty và tiếng sáo thánh thót của
nghệ sĩ Ngọc Nôi.
“Nguồn Gốc Dân Tộc Việt” được cố Đại
lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận khen ngợi : “Là một tác phẩm giá trị với
những khám phá mới lạ mà từ trước tới nay, những sử gia chưa ai đề cập
tới”.
Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm,
nguyên Thứ Trưởng Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa viết: “Tác phẩm rất xứng
đáng có một chỗ đứng quan trọng trong tủ sách của người Việt Nam, nhất
là cho các thế hệ sau này.”
Nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh:
“Tác giả có kiến thức về văn học và sử học Việt Nam và hơn thế nữa, tác
giả là người yêu quê hương và tự hào về dân tộc Việt Nam, tác giả là
người bạn tâm giao với tôi và cuốn sách này cần có trong các tủ sách gia
đình.”
Tiến Sĩ Nguyễn Anh Tuấn (Khoa Học Chính
Trị) nói, “Xin cám ơn sử gia Phạm Trần Anh đã dầy công nghiên cứu để
hôm nay chúng ta có một bộ sử đầy đủ nhất,thuyết phục nhất và hữu ích
nhất cho thế hệ con em Việt Nam chúng ta”.
Ông Lê Mộng Nguyên, Viện Sĩ Hàn Lâm Viện Pháp Quốc xác định: “Đây là một tác phẩm cực kỳ giá trị và hết sức vĩ đại.”
Sách dầy 450 trang với nhiều hình ảnh có giá trị lịch sử.
Cần mua sách xin liên lạc: quocvietanhpham@yahoo.com
714-603-9291
Thanh Phong/Viễn Đông
LỊCH SỬ VIỆT NAM
KÍNH DÂNG
HỒN THIÊNG SÔNG
NÚI
DÒNG GIỐNG RỒNG
TIÊN
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG LẬP QUỐC
ANH THƯ HÀO KIỆT ĐỜI ĐỜI BẢO QUỐC AN DÂN
Sông núi trời Nam của
nước Nam
Sách trời định rõ tự
muôn ngàn
Cuồng
ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc
lấy bại vong lẫn nhục nhằn !
PHẠM TRẦN ANH
cẩn dịch
Nhớ
xưa Quốc Tổ dựng nền
Ngàn
năm văn hiến sử thiên anh hùng
Bọc
điều trăm họ thai chung
Đồng
bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam!
PHẠM TRẦN ANH
DI CHÚC MUÔN ĐỜI !
"Các
người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên
cái họa lâu đời của ta là họa Trung
Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn
hơn. Tức là họ không tôn trọng biên
giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ
gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên
các người phải nhớ lời ta dặn:"Một
tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác ".
Ta muốn lời nhắn nhủ này như một di chúc cho con
cháu muôn đời sau. Quá khứ là gốc rễ của tương
lai, rễ càng đâm sâu thì cây mới vững vàng và càng vươn cao".
VUA TRẦN NHÂN TÔN
(1279-1293)
"Một thước núi, một tấc sông
của ta, lẽ nào có thể vứt bỏ ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho
họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ
điều ngay, lẽ gian.
Nếu ngươi dám đem một thước sông, một tấc đất của
Thái Tổ làm mồi cho gìặc, thì phải tội tru di … "
VUA LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497)
DUY
NGÃ ĐẠI VIỆT CHI QUỐC
THỰC
VI VĂN HIẾN CHI BANG…
NGUYỄN
TRÃI
CHỈ NƯỚC
ĐẠI VIỆT TA TỪ TRƯỚC
MỚI CÓ NỀN VĂN HIẾN NGÀN NĂM …
PHẠM
TRẦN ANH
Cẩn dịch
Chúng ta đều do Tổ Tiên sinh ra, không cứ là trai gái già
trẻ, không cứ là chi tộc nào, dòng họ nào. Mọi người đều là ”CON RỒNG CHÁU
TIÊN”, đều từ một bào thai của mẹ Âu nên tất cả từ một mẹ sinh ra các ngành các
chi mà thôi.
Cành cây lớn
muôn lá, gốc vốn ở rễ. Nước có nghìn dòng sông, muôn ngọn suối, vốn có gốc từ một
ngọn nguồn. Cảnh vật còn như vậy, huống chi là con người chúng ta. Con người
sinh ra đời, đời đời nối tiếp về sau, đều do các người đời trước nuôi nấng dìu
dắt vậy.
Ngưỡng mộ và tưởng
nhớ Tổ Tiên, chúng ta hãy lấy việc siêng năng mà bồi đắp cho gốc rễ. Lấy sự cần
kiệm làm răn rồi tu nhân tích đức, giàu lòng thương người hơn là chê bai ghen
ghét người. Là con cháu thì chúng ta phải nối tiếp truyền thống của Tổ Tiên, chứ
lẽ nào con cháu mà lại không suy nghĩ về ý nghĩa thâm trầm cao đẹp nói trên hay
sao?
HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG
(Nói chuyện
với các bô lão làng Vân Nội)
BÁCH VIỆT TỪ
ĐƯỜNG TỘC PHẢ
Chú giải của La Sơn Phu Tử
“Người Việt đã bao
nhiêu thế kỷ chịu ảnh hưởng của văn minh Hán Hoa, đã ăn sâu vào cá tính và có
thái độ cho rằng mình thua kém, chỉ thu thập văn minh và văn hóa Trung Quốc mà
không tin rằng, văn hóa Trung Quốc thật sự đã nhận được sự đóng góp đáng kể từ
các dân tộc Bách Việt ở phương Nam.
Những nếp sống văn hoá này đem vào Trung
Hoa thời Tiền sử mang yếu tố “Biển” rõ rệt và có thể mô tả bằng một chữ, đó là
chữ “VIỆT” mà trước kia thường gọi sai lầm là Thái cổ (ProtoThai)”. Tôi xác định chữ Việt nay là
quốc hiệu của một nước vùng Đông Nam châu Á: Nước Việt Nam.
Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với
ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng
ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật .!!!”.
J. NEEDHAM
“Việt Nam đầy rẫy
những triết gia hiểu biết theo nghĩa là những con người có chiều sâu tư tưởng,
biết suy nghĩ trăn trở. Càng về đồng quê, thôn cùng xóm vắng thì càng nhiều, đó
là xã hội lý tưởng của Platon mơ ước đã hiện thực ở Việt Nam từ lâu rồi”.
PAUL MUS
“ Việt tuy gọi là man di nhưng tiên
khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy ..!”.
TƯ MÃ THIÊN
“ Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không
báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ở đấy ..! Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến
chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó...”.
KHỔNG PHU TỬ
“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông hun đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”.
HÁN HIẾN ĐẾ
"Người
trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước, yêu nhà,
mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã-hội
của Tổ tiên đã xây dựng nên mà để lại cho mình".
TRẦN TRỌNG KIM
(Việt Nam Sử Lược)
LỜI
GIỚI THIỆU
Như một nhân duyên tôi được đọc những tác phẩm cổ sử của sử gia Phạm
Trần Anh, tôi đã tìm lại “Cội nguồn của dân tộc cũng như của nền Văn minh Việt
cổ”, nền móng căn bản dựng nước của Tổ Tiên và Tiền Nhân. Cội nguồn này đã bị
khống chế và đè bẹp bởi “Văn minh Bái vật của Đại Hán”. Dòng đạo lý nguyên thủy
của Việt tộc là thờ trời thay vì thờ người như văn minh của du mục phương Bắc.
Trật tự của xã hội Việt Nam là trật tự của thiên nhiên. Sau gần một ngàn năm bị
Hán tộc thống trị, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đã đem cái trật tự “Quân
thần” để Hán hóa dân tộc ta bằng hình thức nô dịch văn hóa. Sự xích hoá và nô
dịch văn hóa của Hán tộc đã làm cho sinh mệnh bản thể của văn minh, văn hóa
Việt bị vùi dập, lu mờ hàng ngàn năm qua. Đây là sự mất mát khủng khiếp đã làm
cho hồn dân tộc Việt lao đao lận đận mãi cho tới bây giờ. Lẽ trời đất thịnh
suy, suy thịnh cùng với những thăng trầm hưng phế của lịch sử. Tôi đã đọc
“Nguồn Gốc Dân Tộc” và “Việt Nam Nước Tôi” suốt một đêm mà lòng mình cảm thấy
chứa chan hạnh phúc. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra mà tôi ấm ức mãi vì không tìm
được lý giải khiến tôi canh cánh mãi bên lòng đã được trình bày cặn kẽ sáng tỏ.
Lần đầu tiên tôi được đọc một quyển sách về lịch sử Việt Nam với những lý lẽ
thuyết phục nhất về nguồn cội dân tộc Việt Nam nên hôm nay, tôi muốn chia xẻ
với tất cả những người Việt nam yêu nước thương nòi về nguồn cội dân tộc.
Bước sang thiên niên kỷ thứ Ba của nhân loại, cơ duyên vận nước sắp đổi
thay nên sử gia Phạm Trần Anh đã được điểm hóa để viết những tác phẩm để phục
hồi sự thật khách quan của lịch sử, giúp cho chúng ta nhìn lại “Khuôn mặt Ngàn
đời của Nòi giống Việt” nổi trôi theo vận nước. Chính vì vậy, tác phẩm của sử
gia Phạm Trần Anh được xem như một “Quyển sách Gối đầu giường” không thể thiếu
được của một người Việt Nam yêu nước thương nòi, nhất là các bạn trẻ thanh niên
sinh viên phải tìm hiểu, nghiền ngẫm để làm hành trang trên con đường cứu quốc
và kiến quốc để “Hưng quốc”. Điều tôi
tâm đắc nhất là ông Phạm Trần Anh là một người yêu nước nồng nàn, một chiến sĩ
đấu tranh cho dân chủ tự do dám hy sinh cả tính mạng mình cho dân tộc. Tấm lòng
yêu nước đến cùng cực của ông còn thể hiện trong những tác phẩm lịch sử của
ông. Thật vậy, sử gia Phạm Trần Anh đã khẳng định lập trường rõ rệt là “chỉ dùng chữ nhà cho những triều đại của
Việt Nam vì nhà là cái gì thân thiết nhất, gần gũi nhất, cái gì của mình nên
không thể dùng chữ nhà cho các triều đại Tầu Hán như nhà Hán, nhà Minh, nhà
Thanh mà các sử gia trước đây thường dùng bừa bãi lẫn lộn”. Điều này chứng
tỏ rằng người tù bất khuất Phạm Trần Anh không chỉ là một chiến sĩ cách mạng đã
đứng lên đấu tranh lật đổ bạo quyền Cộng sản mà ông qủa thực là một nhà cách mạng
ngay trong lĩnh vực lịch sử. Thật vậy, do ảnh hưởng vào sách sử cũng như học vị
nên từ trước tới nay, chưa một sử gia nào dám đặt lại vấn đề, chưa dám xét lại
những gì ghi chép trong sách sử dù có thấy một vài điểm vô lý. Đối với lĩnh vực
sử học, việc làm này xem như “Phạm húy”, liều lĩnh dại dột dám phản bác chống
lại những “Khuôn vàng thước ngọc” của tiền nhân từ hàng nghìn năm nay. Thế
nhưng, sử gia Phạm Trần Anh đã dám làm điều đó để “phục hồi sự thật lịch sử, Trả lại những gì của lịch sử cho lịch sử” làm cho mọi người phải đặt lại vấn đề, gạt bỏ
nhận định sai lầm từ trước đến nay về lịch sử của dân tộc Việt.
1. Thứ nhất là sử gia Phạm Trần Anh đã phục
hồi sự thật lịch sử về “Cái gọi là văn minh Trung Quốc” chính là nền văn minh
của Việt tộc. Học giả thời danh J
Needham, một nhà Trung Hoa Học người đã nói: “Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của
ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng,
không tin đó là sự thật .!!!”. Sử gia Phạm Trần Anh
viết: “Tứ Thư Ngũ Kinh không phải của Hán tộc mà chính là của
Việt tộc. Sách Trang Tử kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử. Khổng Tử nói: “ Khâu này
chỉ khảo cứu sâu 6 kinh là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu”. Như vậy thời
Khổng Tử Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu đã có từ lâu và được gọi là “Kinh”.
Chính bộ “Trung Quốc Văn học Sử” do “Bắc Kinh đại học, Trung văn hệ” biên soạn
viết rõ ràng là “Tên gọi Thi Kinh là do Hán Nho thêm vào”. Sử gia chính thống
Hán tộc Tư Mã Thiên viết “ Xưa kia, Thi vốn có hơn 3 ngàn bài, đến Khổng Tử chỉ
lấy 305 bài hợp với việc thực thi lễ nghĩa, đều phổ nhạc, cố tìm âm hợp với
nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng”.
Cổ văn Thượng Thư do Lỗ Cung Công con của Lỗ Cảnh Đế tìm thấy khi phá ngôi
nhà cũ của Khổng Tử để xây cất lại lớn hơn. Trong bức vách nhà có những sách cổ
thời Ngu, Hạ, Thương, Chu,
Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ cổ gọi là Khoa Đẩu
tự hình con nòng nọc. Sách Hán Thư, Thiên văn Nghệ chí chép “Cổ văn Thượng Thư được tìm thấy trong vách
tường nhà Khổng Tử. Khổng An Quốc, hậu duệ của Khổng Tử trước đây đã biết bộ
sách này có 29 thiên do Phục Sinh
truyền, chưa kể Thái Thệ còn thừa ra 16 thiên, tính ra 45 quyển, 58 thiên không
kể bài tựa … nay lại được thêm 16 quyển”. “Như vậy, rõ ràng là Ngũ
Kinh có trước thời Khổng Tử và được viết bằng lối chữ “Khoa Đẩu” là lối chữ
viết theo hình dáng của con nòng nọc của Việt tộc thời xa xưa. Lối chữ “Nòng
Nọc” của người Việt cổ cùng với nền văn hóa Hòa Bình đã lan truyền khắp Trung
Đông, góp phần tạo nên những nền văn minh cổ đại khác của nhân loại”.
Thực tế lịch sử này được Hội nghị Quốc tế các nhà Trung Hoa học trên khắp
thế giới kể cả Trung Quốc và Đài Loan hội thảo về “Nguồn gốc nền văn minh Trung Quốc”
tại đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 đã thừa nhận là “Không thể tìm ra đủ dấu
vết chứng cớ để phân biệt giữa Hán tộc và các tộc người không phải là Tàu trên
phương diện lịch sử. Giới nghiên cứu phải tìm về dấu tích văn hoá mà về văn hoá
thì Hán tộc chịu ảnh hưởng của Di Việt”. Như vậy, Di Việt làm chủ Trung nguyên trước Hán tộc và các triều đại Thương, Chu
tiếp thu văn hóa của Di Việt ở phương Nam. Thực tế này đã
được chính “Người thầy Muôn đời” của Hán tộc là Khổng Tử
đã ca tụng tính ưu việt của nền văn minh rực rỡ của Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau: “Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không
báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ở đấy ..! Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến
chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó...”. Chính Hán Hiến Đế cũng phải thừa nhận: “Giao Chỉ là đất văn
hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất
..!” nên sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên cũng đã phải thừa nhận một sự thực là “Việt
tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy ..!”.
Ngày
nay, sử
gia hàng đầu của Trung Quốc là Trương Quang Trực (Chang
Kwang Chih), đã phải thừa nhận là tuy Trung Quốc là một quốc gia lớn với
một nền văn hoá lớn nhưng nó đã phải thâu nhập tinh hoa của
nhiều nền văn hoá hoá hợp lại: “Những nền
văn hoá địa phương thời tiền sử, sau khi thống nhất đã trở thành một bộ phận
của văn hoá Trung Quốc. Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ là phần nhỏ nhưng sau
khi triều Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy là dân tộc Trung Hoa”.
2. Thứ hai là trong lịch sử chưa một ai dám
phê bình Tư Mã Thiên, sử gia chính thống của Hán tộc, một ngôi sao Bắc Đẩu
trong lịch sử phương Đông nói riêng và cả nhân loại nói chung. Sử gia Phạm Trần
Anh là người đầu tiên đã chứng minh một cách khoa học nhất, thuyết phục nhất
rằng nhân vật Hoàng Đế mà sử gia Tư Mã Thiên viết là Tổ Tiên của nhân dân Trung
Quốc, người khai mở lịch sử Trung Quốc là không đúng sự thật. Việt Nam Thời Lập
Quốc viết:“Theo Từ Hải thì Hoàng Đế, Li Vưu đều là những thị tộc trưởng nên sở dĩ có chiến tranh là để giành ngôi
vị thủ lĩnh mà thôi. Gần đây, học giả Eberhard một nhà Trung Hoa học nổi tiếng
đã công bố một sự thật là vào khoảng năm 450 TDL, một người viết sử đã đưa
Hoàng Đế nguyên là một vị thần nhỏ trong địa phận Sơn Đông lên làm vị vua đầu
tiên của Hán tộc. Nếu Hoàng Đế là một nhân vật có thật thì Đế Hoàng ở Sơn Đông
phải là người Việt cổ, hậu duệ của Thần Nông nhưng thuộc dòng Thần Nông phương
Bắc. Sơn Đông là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trãi của Việt tộc mà cổ sử Trung
Quốc gọi là rợ Đông Di nên vị thần Đế Hoàng chính là người Việt cổ nhưng sử gia Tư Mã Thiên nhận là thủy tổ của người Trung Quốc (Hán tộc) nên viết Đế Hoàng
theo cú pháp Hán tự là Hoàng Đế. Mạnh Tử xác nhận vua Thuấn là người Đông Di và từ điển Từ Hải cũng xác
định là tổ tiên và con cháu Thuấn đều được phong ở đất Đông Di. Thế mà Tư Mã
Thiên, sử quan chính thống Đại Hán lại bao biện cho rằng Thuấn bị xem là người
Đông Di vì thói quen hồi đó gọi là như thế. Luận điệu này không có tính cách
thuyết phục. Tại sao lại có thói quen gọi một người đồng chủng nhất là một vị
vua là rợ Đông Di? Chính bản thân Tư Mã Thiên chỉ can gián vua mà đã bị tội “Cung Hình” phải cắt bỏ bộ phận sinh dục huống chi gọi vua là man di mọi rợ, chắc chắn
phải bị tru di tam tộc!”.
3. Thứ ba, không chỉ Hoàng Đế tức Đế Hoàng mà
cả “Tam Hoàng Ngũ Đế” ghi chép trong lịch sử Trung Quốc thực ra chỉ có nhị
hoàng là Phục Hy, Thần Nông mà truyền thuyết khởi nguyên dân tộc kể lại là dòng
Thần Nông phương Bắc như Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng, Đế Xuyên Húc,
Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Vũ lập ra nhà Hạ trước đây sách sử ghi là của
Trung Quốc mà sự thật là của Việt tộc. Việt Nam Thời Lập
Quốc viết: “Theo các nhà Tiền Sử học thì Malayo-Viets tức Bách Việt đã
định cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6 ngàn năm hoàn toàn phù hợp với niên đại trong huyền sử ghi rằng
họ Phục Hy làm vua từ năm 4.480 đến 3.220 TDL và họ Thần Nông làm vua từ năm
3.220 TDL đến năm 3.080 TDL. Thời Xuân Thu là thời
kỳ phục hưng của Việt tộc với sự trổi dậy của các quốc gia Bách Việt, hết Ngô
đến Việt xưng “Bá” rồi tới Sở lãnh đạo liên minh 6 nước trung nguyên chống Tần
giành quyền thống lĩnh trung nguyên. Chính vì vậy, thời kỳ này mới xuất hiện
các nhân vật huyền sử Việt từ Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế)
tới Đế Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn và Đế
Đại Vũ nhà Hạ của Việt tộc. Chính Khổng Tử, người
được xem là bậc thầy muôn đời của Trung quốc cũng biết rõ điều này nên chưa hề
nhắc tới nhân vật Hoàng Đế của Trung Quốc mặc dù Khổng Tử đã xác nhận rõ là theo phò triều Chu. Trong các tác phẩm Cổ
sử Khảo, Tam ngũ Lịch, Đông Kỷ, Đế vương Thế kỷ thì tất cả đều khẳng định rằng Thần Nông có
liên quan huyết thống với Việt tộc. Nói cách khác, Việt tộc chính là hậu duệ
của Thần Nông. Cổ thư TQ chép đời Nghiêu Thuấn
đánh dẹp họ Cộng Công của Hán tộc vì đã tranh ngôi với Chúc Dung là hậu duệ của
Đế Viêm Thần Nông. Vua các nước Trịnh và hoàng tộc một số nước ở bán đảo Sơn
Đông như Tề, Lỗ, Trần đều nhận họ là con cháu Thần Thái Sơn và lấy họ Khương của
Thần Nông. Như vậy, Thần Nông họ
Khương định cư ở đất Khương ở phía Tây
nên sử TQ viết là Tây Khương đúng như truyền thuyết kể lại là cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh đi tuần du phương Nam
…
4. Thứ tư, sử gia Phạm Trần Anh đã dẫn chứng
công trình khảo cổ học để chứng minh dòng Thần Nông phương Bắc gồm Đế Nghi, Đế
Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Hạ Vũ nhà Hạ là của
Việt tộc. Thật vậy, Lịch sử vẫn là lịch sử trên nguồn thư tịch, thế nhưng một
khi những sự kiện lịch sử này được các công trình khảo cổ chứng minh qua những
di chỉ, hiện vật tại nơi đã xảy ra sự kiện này cũng như thời điểm niên đại khảo
cổ được xác định bằng phương pháp đồng vị C 14 thì sự kiện này trở nên hiện
thực lịch sử sống động, có giá trị thuyết phục mà không một luận cứ nào có thể
phản bác được. Với phương pháp phóng xạ C14, các nhà khảo cổ đã xác minh được
những người Ngưỡng Thiều, Long Sơn thuộc chủng phương Nam Mongoloid nên chúng
tôi gọi là Hoabinhoid=> Hoabinhian=> Protoviets=> Malayoviets= Bách
Việt mới chính xác. Kết qủa phân tích mã di truyền DNA cho biết người miền Đông
và miền Nam Trung Quốc hiện nay có cùng DNA với người Việt Nam và cả cư dân
Đông Nam Á nữa. Chứng cứ khảo cổ này đã phục hồi sự thật lịch sử là nhà Hạ
trong lịch sử Trung Hoa là của Việt tộc đã định cư ở vùng sông Bộc mà truyền
thuyết kể là ngành Thần Nông phương Bắc đã thành lập các triều đại Đế Hoàng, Đế
Nghiêu, Đế Thuấn và Đế Hạ Vũ nhà Hạ.
5. Thứ năm, sử gia Phạm Trần Anh là người đầu
tiên lý giải truyền thuyết khởi nguyên dân tộc một cách rõ ràng nhất, đầy đủ
nhất, trong sáng và thuyết phục nhất chứ không còn hoang đường huyền hoặc như
chúng ta vẫn hiểu từ trước đến giờ. Thế là truyền thuyết từ chỗ “u u minh minh”
đã trở thành “minh minh” chứ không còn “u u minh minh” như trước nữa. “Với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng nghiêm chỉnh và với phương pháp nghiên cứu huyền thoại để tự đặt mình vào hoàn cảnh
lịch sử thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong huyền thoại sẽ gợi mở sáng
tỏ, minh nhiên lý giải những gì ẩn tàng trong
bức thông điệp “Huyền Thoại” của tiền nhân gửi gấm cho thế hệ chúng ta. Ý niệm trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem vật linh biểu trưng của
Việt tộc là tộc người thờ chim là một con vật đứng đầu trong tứ linh: nhất
điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Vì vậy, việc Mẹ Âu Cơ mà vật tổ biểu trưng là
chim thì việc mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người con trai trên bình diện
tâm linh là bình thường không có gì đáng ngạc nhiên cả…”.
6. Sử gia Phạm Trần Anh
đã chứng minh niên đại của truyền thuyết về Thần Nông vào thiên niên kỷ
thứ IV TDL hoàn toàn phù hợp với niên đại khảo cổ và kết quả đo chỉ số sọ của
các nhà Khảo Tiền Sử về chủng Hoabinhian-Protoviets => Indonesian
(Malaynesian=> Malayo-Viets = Bách Việt Bai-Yue). Theo các nhà Tiền Sử học thì
Malayo-Viets tức Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6 ngàn
năm. Công trình nghiên cứu sử học của học giả Shi Shi người Trung Quốc thì
người U Việt (Gu-Yue) đã làm chủ biển cả cách đây hơn 7 ngàn năm. Đặc biệt, truyền thuyết kể lại rằng bố Lạc dẫn 50 con về “Thủy Phủ”, trước đây chúng
ta cho là huyền hoặc thế nhưng địa danh thủy phủ đã được 2 học gỉa người Pháp
là P Gouron và J Loubet tìm ra, đó chính là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh
Tứ Xuyên được in trên bản đồ Atlas 1949. Sự thật lịch sử này đã được chính
nguồn sách sử cổ Trung Hoa xác nhận khi chép về cộng đồng Bách Việt, đã chứng
minh sự thật lịch sử của huyền thoại mà ta cứ tưởng là huyền hoặc hoang đường. Truyền thuyết khởi
nguyên dân tộc đã được chính thư tịch cổ Trung Quốc
thừa nhận sự thành lập của các quốc gia thời Chiến quốc mà họ gọi là Bách Việt ở
vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết
Giang mà lên tới miền Giang Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi
tiếng của chi Dương Việt mà kinh đô là Cối Kê. Lý Tế Xuyên đã viết “Việt Điện U
Linh” về nước Việt cổ xưa. Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Điền
Việt ở Vân Nam, Quì Việt ở Tứ Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là
Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc VN. Chính sách sử cổ Trung Quốc
ghi rõ cộng đồng Bách Việt cư trú khắp trung nguyên, thế mà sử quan triều Thanh
Tiền Hy Tộ đã bóp méo ý nghĩa và sửa lại niên hiệu thành lập nước Văn Lang như
sau: “Đến đời Chu Trang Vương
(696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc,
tự xưng Hùng Vương, đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Phong tục thuần
hậu, chất phác. Chính sự dùng lối thắt nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng
Vương …”. Trước những sự thật của
lịch sử, Trung Quốc đã phải xác nhận là nền văn hoá của họ là do hàng trăm dân
tộc góp phần tạo dựng nhưng văn hoá Hán ở vùng Tây Bắc là chủ thể. Thế nhưng
chính học giả Trung Quốc Wang Kuo Wei lại cho rằng nơi phát nguyên văn hoá Trung Quốc là ở miền Đông Bắc tức vùng Sơn Đông của Lạc bộ Trãi chứ không phải ở miền
Tây Bắc (Thiểm tây) như quan niệm sai lầm từ trước đến nay. Thế mà các nhà sử học Mác Xít đã viết sử rập khuôn sử quan triều Thanh và theo nghị quyết của đảng Cộng Sản Việt
Nam về sự thành lập nước Văn Lang trong bộ Lịch sử Việt Nam của Nhà nước Cộng
Hòa Xã
Hội
Chủ
Nghĩa Việt Nam như sau: “Sự ra đời của nhà
nước Văn Lang đầu tiên của nước ta đời Hùng Vương và Âu Lạc đời An Dương Vương
vào giai đoạn Đông Sơn trong thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên… Căn cứ theo
15 bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào quá trình chuyển hoá lịch sử nước
Văn lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời An Dương Vương, rồi đến 2 quận Giao
Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có thể xác định địa bàn của nước
Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta ngày nay và một phần
phía Nam tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc”. Trên thực tế, địa bàn cư trú của tộc Việt mà
sách sử cổ TQ ghi là các quốc gia Bách Việt ở rải rác khắp lãnh thổ Trung Quốc
bây giờ. Các nhà sử học Mác Xít theo quan điểm của đảng Cộng Sản Việt
Nam đã cố
tình sao chép nguyên văn những xuyên tạc, kéo lùi niên đại
thành lập Văn Lang cũng như xác nhận lãnh thổ của Văn Lang chỉ bao gồm phần
lãnh thổ VN hiện nay và 1 phần phía Nam tỉnh Quảng Tây TQ chính là
một hành động bán nước, phản bội lại công lao của vua Hùng và xương máu của
biết bao thế hệ tiền nhân. Việc sửa đổi lịch sử để hợp thức hóa sự xâm lăng của
Hán tộc là một tội ác mà “Thần Người đều
căm hận, Trời Đất chẳng dung tha” của tập đoàn Việt gian bán nước, tội đồ
muôn đời của dân tộc.
7. Cuối cùng, sử gia Phạm Trần Anh đã dẫn
chứng một sự thật lịch sử mới được khoa học xác
nhận phân
tích cấu trúc di truyền DNA của Việt tộc đã xác định một
lần nữa là Việt tộc là một đại chủng và hoàn toàn khác biệt với Hán tộc làm sáng tỏ vấn nan
khúc mắc từ ngàn xưa. Tôi trân trọng cám ơn sử gia Phạm Trần Anh đã dày công
nghiên cứu để hôm nay chúng ta có một bộ sử với những chứng cứ khoa học nhất, thuyết
phục nhất, đầy đủ nhất và hữu ích nhất cho thế hệ con em Việt Nam chúng ta.
Nguyễn
Anh Tuấn (Tiến sĩ Khoa học Chính Trị)
LỜI NÓI
ĐẦU
Mỗi dân tộc đều có
những truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang
tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống
Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét
nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con Rồng cháu Tiên là
niềm tự hào của nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì từ em bé thơ ngây đến
cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả uyên bác đến bác nông dân suốt đời chân lấm
tay bùn, không ai không một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai
trong chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng Tiên với thiên tình sử của “Bố
Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời kỳ lập quốc của dòng giống Việt.
Truyền thuyết Việt Nam
nói đúng hơn đó là truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền
thoại nhưng thực chất lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống.
Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm
đậm tính nhân đạo, chan chứa vẻ nhân văn, tràn đầy tình đồng bào, nghĩa ruột
thịt qua hình tượng “Bọc điều trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào dẫn
đến lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị
đạo lý truyền thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Henri Bernard Maitre đã
ca tụng nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua đền thờ gọi là “Văn miếu”. Văn Miếu
không phải để cầu kinh hay làm bùa phép mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh
hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá, các vị Tiến sĩ với những chuẩn mực đạo đức
để con cháu đời sau ghi sâu vào tâm khảm bài học về đạo làm người Việt Nam,
xứng đáng với hoài bão của Tiền Nhân.
Đối với người Việt,
việc thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm người trong đời sống tâm linh của
người Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên thường nghĩ tới ngày
giỗ của người thân hơn là chú trọng đến ngày sinh nhật của mình. Ngày nay, dù
giới trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không quên những ngày kỵ
giỗ người thân trong gia đình. Đạo thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện
đạo lý làm người của Việt tộc. Linh mục Cadière một thừa sai ngoại quốc đến
Việt Nam truyền giáo phải thốt lên “Việt
Nam là một dân tộc có tinh thần tôn giáo cao độ”.
Học giả P. Mus nghiên
cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng “Dân
tộc Việt có một đời sống tâm linh cao, người Việt không làm việc, họ tế tự”.
Thật vậy, người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng có bàn thờ gia Tiên
ở chính giữa nhà. Trong đời sống tâm linh Việt, Nhất cử nhất động, việc gì cũng
tràn đầy tính chất thiêng liêng, thờ phượng, tế lễ, cúng giỗ với tất cả tấm
lòng chí thành”. Đây chính là điểm đặc thù độc đáo thấm đậm bản sắc dân
tộc, tràn đầy vẻ nhân văn của triết lý văn hoá nhân chủ Việt Nam. Trong đời
sống tâm linh Việt không chỉ hiển hiện ở bàn thờ Gia Tiên mà đền thờ ngự trong
tâm thức mỗi người.“Người Việt không tham
dự vào các buổi lễ để được ban phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện như một
người “Tư Tế” với tất cả tính chất thiêng liêng của một tôn giáo”. Điều này
thể hiện giá trị cao đẹp đặc trưng đời sống tâm linh của người Việt cổ.
Thờ cúng tổ tiên chính là đạo lý làm người, là cái gì thiêng liêng cao
cả truyền từ đời này sang đời khác. Chính dòng sống tâm linh này đã góp phần
bảo tồn dòng giống Việt. Truyền thống thờ cúng ông bà không còn là một tập tục,
một tín ngưỡng đơn thuần mà đã trở thành đạo lý của dân tộc. Thờ cúng ông
bà được xem như Tổ Tiên chính giáo của đạo làm người Việt Nam mà Nguyễn Đình
Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX đã ân cần nhắc nhở “Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”. Người
Việt Nam ai cũng biết uống nước phải nhớ nguồn vì “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một
lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn đạo hiếu mới là đạo con ..! Ơn cha mẹ thề không
lỗi đạo, Thờ sống sao thờ thác làm vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa nay, Con nguyền
ghi nhớ thảo ngay một lòng”.
Đây chính là điểm độc
đáo của dòng sống tâm linh Việt vẫn tiếp nối truyền lưu trong mỗi con người
Việt Nam chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh đời sống thực tế
khổ đau trước mắt, vẫn hiển hiện một đời sống tâm linh sâu thẳm, thấm đậm tính
nhân bản hiện thực cao đẹp. Chính dòng sống tâm linh đó đã tạo cho mỗi người
Việt Nam một quan niệm sống lạc quan yêu đời, an nhiên tự tại nhưng vẫn sẵn
sàng hy sinh mạng sống cho nền độc lập thực sự, quyền tự do thực sự và sự ấm no
hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam.
Lịch sử Việt là lịch sử
của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay trải qua gần một ngàn năm đô hộ
của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa
ngoại lai. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của một
nước lớn đất rộng người đông cùng với những thủ đoạn thâm độc quỉ quyệt xóa đi
mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về
lịch sử trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ.
Mỗi một triều đại Hán
tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh
hưởng nặng nề của gần một ngàn năm nô dịch văn hóa khiến ta chấp nhận tất cả
như một sự thật mà không một chút bận tâm. Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sử
của sự thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng của chân lý
khách quan trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Bước sang thiên niên kỷ
thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi
kẻ thù Hán tộc bành trướng. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng sốt
trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” khi trước đây nhân loại cứ tưởng tất cả nền
văn minh Tây phương là của đế quốc Hy Lạp La Mã, để rồi phải xác nhận đó chính
là nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ
ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn
minh của đại chủng Bách Việt.
Vấn đề đặt ra cho chúng
ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử Việt để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa
tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp của dân
tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát
trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương
đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người
du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống
phương Nam để rồi trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải qua gần một ngàn năm
đô hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở
ra thời kỳ độc lập của Việt tộc.
Trong suốt trường kỳ
lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền
văn hóa của Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán tộc để hình
thành “cái gọi là văn minh Trung Quốc”. Chính sử gia chính thống của Hán tộc là
Tư Mã Thiên đã phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân
vậy …”. Vạn thế sư biểu của Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực
rỡ, xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở phương Nam. Trong sách
Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau:
“Độ luợng bao dung, khoan
hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người
quân tử ở đấy..! Mặc giáp cưỡi ngựa,
xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường
đạo ở đó ..”.
Trong kinh “Xuân Thu”,
Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, con giết cha, cha cướp
vợ của con, con cướp vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa
… Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn còn dã man mạnh được yếu thua, bất kể
tình người, bất kể luân lý đạo đức. Thế mà chính sử Trung Quốc cứ vẫn miệt thị
Việt tộc là man di, các Thứ sử Thái Thú Hán vẫn lên mặt giáo hóa dân Việt trong
khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh nông nghiệp từ lâu.
“Vạn thế Sư biểu” của
Hán tộc là Khổng Tử cũng đã phải đem những nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền
văn minh Bách Việt phương Nam đặt để thành những tôn ti trật tự, những giá trị
đạo lý cho xã hội Trung Quốc. Tất cả những “Tứ thư, ngũ kinh” được xem như tinh
hoa của Hán tộc đã được chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi
bất tác”, chép lại của tiền nhân chứ không phải do ông sáng tác ra. Ngày nay,
sự thật lịch sử đã được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết các
phát minh gọi là văn minh Trung Quốc từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh
kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm thuốc
súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền văn
minh Bách Việt. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán đã phải thừa
nhận như sau:
“Giao Chỉ
là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân
tài kiệt xuất ..!”.
Bước sang thế kỷ XX,
dân tộc Việt chưa tháo gỡ được cái ách thống trị của thực dân Pháp thì chủ
nghĩa cộng sản đã tràn vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế khốn cùng. Cộng
sản Việt Nam đã núp dưới chiêu bài giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa
cộng sản, tạo cơ hội cho tư bản nhân danh thế giới tự do nhảy vào can thiệp,
ngăn chặn làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á. Hậu qủa là hàng triệu người đã phải hi
sinh oan uổng để rồi gần chín mươi triệu đồng bào đang phải sống dở chết dở
dưới chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân. Với chủ trương nô dịch của cộng sản,
biết bao thế hệ Việt Nam bị nhồi nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà
hậu qủa là tạo ra những cỗ máy vô hồn, những con người vô cảm lạnh lùng, mất
gốc.
Gần 4 triệu đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên khắp thế giới
nên thế hệ con em chúng ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh hưởng của văn hóa ngoại
lai mang tinh thực dụng, quên đi bản sắc văn hóa truyền thống Việt chan chứa
tình người. Chính vì vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải phục hoạt
văn hóa Việt, phục hưng minh triết Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ
truyền bá văn hóa “Trung Quốc” đang được “những tên Thái thú mới”, “xác Việt
hồn Tàu” đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân
tộc Việt.
Hơn lúc nào hết, tìm hiểu về huyền thoại Rồng Tiên, khởi nguyên dân tộc Việt Nam thời
Lập Quốc với Quốc Tổ Hùng Vương là một yêu cầu
lịch sử hết sức cần thiết. Trong ý hướng đó, chúng tôi cố gắng tóm gọn lịch sử
Việt khời từ thời lập quốc cho đến ngày nay để viết quyển Việt Nam Nước Tôi để thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ tường tận lịch
sử Việt Nam. Khi thế hệ con em chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn hoá truyền thống
của dân tộc Việt, về đời sống văn hoá tâm linh Việt, về những lễ tết, hội hè
đình đám của dân tộc Việt thì thế hệ con em chúng ta sẽ thấy rõ hơn gía trị cao
đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống nhân bản Việt. Con em chúng ta có quyền tự
hào là “con Rồng cháu Tiên” của một dân tộc có lịch sử lâu đời như danh nhân
văn hóa Nguyễn Trãi đã tuyên xưng: “Chỉ
nước Đại Việt ta từ trước, mới
có nền văn hiến ngàn năm”.
Chúng ta phải làm sao xứng đáng với tiền
nhân, chúng ta phải làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với anh
linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn thể đồng bào trong nước và Hải
ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời sông núi
để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm vóc, xứng danh ngàn năm dòng
giống Lạc Hồng.
Chúng ta hãnh diện được
làm người Việt Nam thuộc một đại chủng lớn của nhân loại để ngẩng cao đầu sánh
vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại. Chính niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc
lòng yêu nước của toàn thể
đồng bào Việt Nam chúng ta, nhất là thế hệ trẻ trong
nước và Hải ngoại để vươn lên làm một cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ xã hội.
Điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc chúng ta một thế hệ trẻ có
đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
siêu vượt, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng các cường quốc trong
thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Mùa Giỗ Tổ 4.891 Việt Lịch (2012 DL)
PHẠM TRẦN ANH
No comments:
Post a Comment