Saturday, January 30, 2016

NGÀY THÁNG ĐÓ!      

Thời gian qua thật mau, thế mà cũng đã ba mươi hai năm qua đi rồi các bạn ạ. Ba mươi hai năm nhìn lại để trong mỗi chúng ta chẳng thể nào quên:


               Ngày tháng đó suốt đời ta nhớ mãi ..
              Cả Sài Gòn phủ kín một màu tang ..!                                                                           Cờ hạ xuống bao hồn thiêng u uất,                                                                                Nước ngậm ngùi chứng kiến cảnh bể dâu!


      Sáng 30 tháng tư, phố xá Sài Gòn mang một bộ mặt khác thường, người qua kẻ lại hớt hãi vội vàng, phố xá ngổn ngang giày dép áo quần vất bỏ từng đống trên những con đường hoang tàn xơ xác của một thành phố chết. Người Sài Gòn vẻ mặt hốc hác sau mấy đêm dài mất ngủ, ngỡ ngàng ngơ ngác nhìn nhau. Rồi thì mạnh ai nấy tính, kẻ lo tìm đường vượt biển, người rầu rĩ khăn gói về quê, đổi chỗ ở tránh sự truy tìm lý lịch trả thù của Cộng sản.


      Buổi sáng hôm đó, tôi như kẻ mất hồn đi lang thang khắp Sài Gòn lúc vừa đến Tượng đài Thủy quân Lục chiến ở trước Hạ viện thì nghe súng nổ, bà con lại xôn xao nói về người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà nào đó đã móc súng tự sát trước tượng đài mà sau này biết ra là Trung tá Long Cảnh sát Quốc gia. Buổi trưa, sau khi từ Dinh Độc lập đi bộ lững thững về chợ Bến Thành, ngược trở lại Lê văn Duyệt tìm một quán cóc bên đường, kêu một ly cà phê đá rồi ngồi nhìn cảnh tượng hoang tàn mà lòng ngổn ngang trăm mối. Bàn bên cạnh mấy ông lớn tuổi mắt xớn xác nhìn ngang nhìn dọc rồi kể cho nhau nghe về chuyện mấy anh em thương phế binh ở Quân y viện Cộng Hoà bị Việt Cộng đuổi ra khỏi bệnh viện đã rút kíp lựu đạn để mấy anh em cùng chết, rồi một trung đội nhảy dù dưới quyền chỉ huy của viên Thiếu Uý đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng và họ đã chừa viên đạn cuối để tự kết liễu cuộc đời của những chiến sĩ hào hùng đó.


      Ngày tháng đó, tôi nhớ mãi những dằn vặt thao thức, những âu lo sợ sệt, những tức tưởi ngỡ ngàng căm thù uất hận:


                   Ta đứng đó lặng nhìn thành phố chết,
                  Bao hờn căm u uất bỗng dâng trào …                                                                            Lặng nghe lòng thổn thức những thương đau                  Ôm mặt khóc, Trời ơi mình chiến bại!?      

Tôi mua một ổ bánh mì thịt rồi kêu một xị “Nước mắt quê hương” ngồi nhâm nhi một mình. Ôi nước mắt quê hương tên gọi của rượu đế Việt Nam sao mà thấm thía đến thế … Nước mắt quê hương đang thấm dần vào người tôi, một cái xác không hồn, gật gà gật gù như đang suy nghĩ đăm chiêu nhưng thực ra lúc đó có nghĩ gì được đâu dù thỉnh thoảng một ý nghĩ thoáng qua trong cái đầu óc hoang mang. Họ là những anh hùng, anh hùng vô danh không tên tuổi nhưng thực sự là những anh hùng, anh hùng hơn những Tổng thống, tướng tá bỏ thành bỏ dân chạy quên tên tuổi, còn mình ngồi đây uống rượu chẳng biết tính sao đây? 


      Tôi không đủ can đảm để tự bóp cò súng bắn vào đầu nhưng chấp nhận chết đứng như một Từ Hải chứ không chịu bỏ chạy, không chịu xuống tàu khiến vợ con sau này buồn phiền trách móc không ít và đó cũng là một trong những lý do nàng đã chia tay mà tôi không hề phiền muộn hay trách cứ gì nàng!


      Buổi sáng ngày 29 tháng tư, khi từ nhà đến chỗ vợ con tôi ở thấy dòng chữ nguệch ngoạc viết vội trên cửa “Anh xuống tàu Long Hồ ở bến Bạch Đằng gấp. Em và các con đang chờ!”. Tôi choáng váng, đầu óc suy nghĩ lung tung. Nếu tôi đến không kịp thì vợ tôi đã bỏ tôi để ra đi … Tại sao lại phải đi? Bao nhiêu ý nghĩ quay cuồng trong đầu óc khiến tôi không tự chủ được với ý  nghĩ lẩm cẩm đầy tự ái của một anh chồng “Việt Nam” khiến tôi bực dọc, mà sau này tôi mới thấy là không đúng lúc của tôi. Tôi cũng ra bến Bạch Đằng khúc gần Hải quân Công xưởng thuê một chiếc xuồng nhỏ ra cập sát vào bên hông tàu. Cả gia đình bên ngoại vui mừng kêu tôi lên tàu nhưng thay vì bước lên thì tôi lại chỉ tay kêu vợ tôi xuống. Cả nhà chưng hửng, không hiểu tại sao tôi lại làm vậy, ngay cả bay giờ tôi cũng không hiểu nữa là … Vợ tôi biết rõ tính tôi nên bù lu bù loa vừa mếu máo vừa bế mấy đứa con tôi xuống. Mấy dì nó thấy vậy cũng leo xuống theo rồi ông ngoại mấy cháu cũng xuống theo. Bước lên bến, ông ngoại và mấy dì nó chẳng nói chẳng rằng bỏ đi một mạch. Tôi hiểu nỗi buồn giận mà chẳng biết ăn nói làm sao! 


     Mấy năm sau gia đình bên ngoại của tôi xuống Bạc Liêu mua thuyền đi đánh cá mới vượt biên được, vợ tôi dẫn thằng con trai lớn giả lấy củi ở bờ biển lên ghe được, còn dì Mỹ Nhung dẫn 4 đứa con gái còn nhỏ ngồi chờ nhưng bị động nên ông ngoại nó quyết định phải đi rồi tính sau. Nghe nói nhà tôi thấy mấy đứa con bị bỏ lại đã nhảy xuống bể, cậu nó phải vớt lên. Tội nghiệp vợ tôi, sang Mỹ rồi mà còn phải nằm ở bệnh viện tâm thần một thời gian khá lâu.  Mãi cho đến năm 1990, nhà tôi mới bảo lãnh được cho các cháu sang bên Mỹ, tôi mới như trút được nỗi ưu phiền, ân hận đeo đẳng bấy lâu ...


      Cho đến bây giờ và mãi mãi về sau, dù đã “Chia tay Hoàng hôn”, tôi gọi là chia tay hoàng hôn vì gần cuối cuộc đời mà lại chia tay nhưng tôi sẽ nhớ nàng suốt đời và không bao giờ quên được những ân tình mà nàng đã dành cho tôi!

Thursday, January 28, 2016

TÔI PHẢI SỐNG …


Buổi lễ Tưởng niệm ba mươi hai năm “NGÀY MẤT NƯỚC” được tổ chức ở tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, tôi đến tham dự và được ban tổ chức mời phát biểu cảm tưởng và thay mặt các Hội đoàn, Đoàn thể đọc Tuyên Cáo. Buổi lễ ngoài trời với đông đảo bà con đồng hương tham dự, mãi đến gần 7 giờ tối, tôi lên tuyên đọc Tuyên Cáo lên án chế độ CS việt gian Hại dân bán nước. Chính vì vậy, tôi không đến kịp để dự “Bữa Cơm Cay Đắng” do Tổng hội cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và thân hữu tổ chức. Mục đích buổi họp mặt này chính là để anh em tâm tình, nhắc lại những buồn vui để chung lòng chung sức tiếp tục công cuộc đấu tranh giải thể chế độ cộng sản mang lại tự do dân chủ hạnh phúc thực sự cho hơn 84 triệu đồng bào Việt Nam. 

Tôi còn nợ anh em vì đã đến không kịp nên phải viết một bài về chuyện tù, thơ tù để đăng trên tạp san Hoài Bão và báo Thời Luận để tạ lỗi với anh em. Khi đặt bút viết, ý nghĩ cứ tuôn trào nên mới chọn những bài thơ tù "Đứt Ruột" của những tù nhân bất khuất để gửi đến quí vị...Vâng, tôi xin tản mạn đôi điều tâm tình về những ngày tháng lao tù đày ải trong các trại tù của Cộng sản. Đây không phải là hồi ký nên nhớ đến đâu viết đến đó, không có đầu đuôi gì, xin quí vị thông cảm mà đại xá cho ...


Khoảng tháng bảy năm 1978, tôi được mở cùm chân còng tay đi “làm việc” với Viện Kiểm sát nhân dân để kết cung ra tòa. Sau một thời gian dài nằm trong ngục tối, bị cùm còng đói ăn khát uống lại nếm đủ mùi vị kỹ thuật khai thác cung cán của những tên cộng sản chuyên chính dày dạn kinh nghiệm tra khảo nên khi vừa bước ra ngoài xà lim, người tôi lảo đảo phải dựa vào tường mấy phút mới đứng vững được. Cô công an dẫn tôi tới một căn phòng, vừa bước vào tôi thấy một người mặt mày nhẵn bóng, bận đồ vest đàng hoàng nhưng lại ngồi chồm hổm trên ghế, để lộ cả đôi bí tất chân cao chân thấp. 

Thấy tôi bước vào phòng, y vội bỏ chân xuống, đưa mắt nhìn cô thư ký như trách móc sao không gõ cửa báo trước để tôi nhìn thấy cảnh ngồi chồm hổm kiểu ngồi nước lụt này. Bắt đầu “khúc dạo đầu” là màn hỏi thăm sức khoẻ rồi gợi tới tình cảm gia đình, mẹ già vò võ, vợ dại con thơ rất ư là bài bản. Tuy biết là tên cáo già này nhắc tới những tình cảm thân thương ruột làm mình mềm yếu tình cảm để mình “thành khẩn khai báo”, thế mà tôi thấy mình như chựng lại, tự nhiên thấy xót xa rồi lòng mình mềm nhũn... Tên cán bộ ngồi nước lụt này có vẻ đắc ý nên y nói giọng nhân nghĩa nào là “Cán bộ ở đây đối xử với anh có tốt không? Có ai đánh đập anh không? Nghiên cứu hồ sơ tôi thấy anh còn ngoan cố chưa thành khẩn nhận rõ tội lỗi của mình. Nếu anh thành khẩn khai báo, thì khi ra toà tôi sẽ tha tội chết cho, may ra còn có ngày về đoàn tụ với mẹ và vợ con anh …”. 

Đến đây thì tôi chịu không nổi nữa, tôi cũng muốn kết thúc một lần cho xong nên phản ứng liền: “Anh đừng giả vờ giả nhân giả nghĩa nữa, chính anh ra lệnh đánh tôi chứ ai. Anh không cần nói nhiều nữa, đưa tôi tờ giấy trắng tôi ký tên, khỏi cung với cán gì nữa ...”. Tên viện kiểm sát tức giận đập tay xuống bàn rồi bỏ đi ra khỏi phòng … 


Khi tên kiểm sát vừa bước ra khỏi phòng, cô bé thư ký bước vội tới nắm lấy vai tôi nói vội: “Tại sao chú lại nói vậy, chú có biết ông này... thằng này nó giết bao nhiêu người rồi không? Chú phải sống ...”. Nói xong như lỡ lời, cô bé trở về chỗ ngồi nhìn tôi bằng đôi mắt ái ngại... Tôi cũng ngạc nhiên trước thái độ của cô thư ký “Cộng Sản” giàu lòng nhân ái này, hình ảnh bộ mặt hốt hoảng của cô bé theo tôi mãi cho đến bây giờ, xin cảm ơn người cán bộ “ba mươi” còn lại chút tình người này...

ĐÒN THÙ PHỦ ĐẦU


Tôi bị bịt mắt hai tay còng quặt ra sau lưng rồi hai tên công an đi kè hai bên đẩy tới trước, mình đi theo như một cái xác không hồn. Không biết cuộc đời sẽ đi về đâu, một ý nghĩ chợt loé lên “Đã tới nước này rồi thì kệ nó tới đâu thì tới, chết là cùng chứ gì ...”. Vừa bị đẩy vào phòng thì nghe tiếng quát, giọng Bắc kỳ đặc sệt: “Địt Mẹ mày, giờ này mà còn phản động… để tao xem gan mày to bao nhiêu mà dám chống lại chúng ông, úp mặt vào tường, khẩn trương lên ...”. Bất thình lình một báng súng như trời giáng vào lưng, đau nhói tá hoả tam tinh. Chưa kịp hoàn hồn thì những cú đấm, cái đá dồn dập, tôi lảo đảo té xấp vào tường không biết gì nữa... 


Đêm xuống cái lạnh buốt giá của hơi sắt cùng với mùi hôi tanh xen lẫn khai khai của nước đái làm tôi tỉnh lại tự lúc nào. Tôi thấy người ê ẩm, hai tay bị còng ra đằng trước, hai chân thò ra ngoài cùm run lên vì lạnh, nhìn mãi cũng không nhận ra nằm ở đâu, định thần nhìn lại mới thấy chung quanh lờ mờ khoảng hơn 2 thước vuông. Tôi chợt nhận ra là mình đang nằm trong cái thùng sắt mà ngày xưa thường gọi là cô nếch là cái thùng đựng hàng mà bây giờ gọi là container loại nhỏ, "tàn dư của đế quốc Mỹ đây mà". Ban đêm thì lạnh cóng, ban ngày thì hơi nóng của cái hộp sắt kín mít như một lò hấp người. 


Hôm sau chúng giải tôi lên Trại tạm giam Đà Lạt nguyên là trung tâm thẩm vấn của chế độ cũ. Tôi bị đẩy vào một xà lim nhỏ khoảng 2mx1m4 và cao khoảng 2 m. Nằm ngửa chân tay xiềng xích, mắt nhìn thẳng lên cái trần bêtông ở giữa có khoét một lỗ vừa đủ thò ra một cái bóng đèn tròn rọi thẳng vào mắt. Tôi chợt hiểu đây chính là đòn tra tấn nhẹ nhàng cân não làm mắt mình mỏi mệt, cộng với chính sách bao tử cho ăn cầm hơi để cho tù đói ăn khát uống, tinh thần sẽ suy xụp để chúng dễ bề khai thác. 


Tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng những gì chúng biết thì mình cứ từ từ khai như có vẻ “thành khẩn” khai báo như chữ thường dùng của Việt cộng và một số chi tiết dự phòng khi bị tra tấn thì làm như đau quá chịu không nổi phải khai ra để chúng cho là “thật” nhưng đã được chuẩn bị trước. Quan trọng nhất là đã khai lý lịch rồi, khai điều gì rồi thì phải nhớ nằm lòng, phải tử thủ, khai đi khai lại cũng trước sau như một. Chứ trật hoặc thêm một chi tiết nào là đời khốn nạn liền. Chúng cứ nắm lấy những sơ hở rồi lấy cung liên tục để moi ra cho bằng được. Khi chúng đưa ra những lời khai của người khác là phải phủ nhận và đòi đối chất với người đó ngay để chứng tỏ mình khai thật và cũng là cách để mình hoãn binh chi kế rồi tính sau…


Tôi mỉm cười nhưng nằm ngửa suốt cả ngày, mệt mỏi rã rời, bụng đói cồn cào... Cái cảm giác khó chịu nhất là mắt hoa lên, dường như tấm đan bêtông trên trần nhà thấp lè tè như đang ụp xuống đè lên người tôi. Cái khó chịu nhức nhối ám ảnh mà bây giờ sau mấy chục năm vẫn còn ám ảnh, không thể nào quên nổi và cũng chẳng có ngôn từ nào có thể diễn tả được. Thế nhưng cũng chính thời gian đó tôi làm được 4 câu thơ đầu tiên trong đời mà tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi lại có thể làm thơ được:

Gươm Đàn, hề nửa gánh,
Sầu cố quốc khôn khuây.
Nam nhi, hề chí khí,
Vuốt mặt, luống đoạn trường...




Tuesday, January 26, 2016

ĐỌAN TRƯỜNG BẤT KHUẤT


NGƯỜI NUÔI LÝ TƯỞNG NHÂN SINH
THI SĨ ĐAM MÊ VĂN NGHỆ


. Phạm Trần Anh bút hiệu Phạm Trần Quốc Việt sinh năm 1945 tại làng Cát Hạ, huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định. Sau hiệp định Genève anh di cư vào Nam năm 1954 và trưởng thành ở Sài Gòn.
. Cựu Học sinh Trường Trung học Nguyễn Trãi và Chu văn An từ 1956-1963.
. Thời sinh viên từng hoạt động trong Ban Đại diện Sinh viên Y Khoa Huế, chủ bút Giai phẩm Xuân Tình Thương của Đại học Y Khoa Huế 1964.
. Trưởng ban Tổ chức Tổng hội sinh viên Huế chống Hiến chương Vũng Tàu 1964 của chính phủ quân phiệt Nguyễn Khánh. Tranh đấu đòi phục hồi quyền Dân chủ bầu Quốc hội Lập hiến.
. Giáo sư dạy giờ trường Trung học Saint Thomas Sài Gòn.
. Uỷ viên Báo chí Ban Đại diện Sinh viên Quốc Gia Hành Chánh.
. Đoàn trưởng Đoàn sinh viên Phật tử Xã hội 1968.
.Trung tâm trưởng Trung tâm Phan Sào Nam cứu trợ đồng bào nạn nhân Cộng Sản tết Mậu Thân 1968.
. Chủ trương các tờ báo sinh viên Đất Đứng, Ý Thức, Cấp Tiến và Bừng Sáng thập niên 1960.
. Ủy viên Thường vụ Tổng đoàn Thanh niên Võ đạo Việt Nam (Vovinam).
. Tốt nghiệp Học viện Quốc Gia Hành Chánh Khóa XIV.
. Cựu sinh viên Cao học chính trị xã hội viện Đại học Đà Lạt.
. Ủy viên Kế hoạch Hội Cựu sinh viên QGHC 1969-1971.
. Quản đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Quảng Nam 1969.
. Tốt nghiệp khoá 4/70 Sĩ qua Trừ bị Thủ Đức. Trưởng ban Biên tập Nguyệt san Bộ Binh và kỷ yếu khoá 4/70.
. Phó Quận trưởng Hành chánh quận Tam Bình Minh Đức, Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long (1970-1973).
. Trưởng ty Hành Chánh kiêm Quản đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Lâm Đồng.


. Sau ngày mất nước, ở lại Việt Nam thành lập Mặt trận Người Việt Tự do cùng với Thi sĩ Tú Kếu Trần Đức Uyển, nhà văn Trọng Tú.
. Bị chế độ CSVN bắt ngày 3 tháng 7 năm 1977, toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng buộc tội: “Tên Phạm Trần Anh là tên phản động ngoan cố cực kỳ nguy hiểm, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, câu kết với các tổ chức phản động trong nước và các thế lực phản động quốc tế nhằm lật đổ chế độ … Tòa kết án Chung thân, cách ly khỏi xã hội”.


. Sau hai mươi năm 1 tháng tù đày, do sự can thiệp của Tổ chức Ân Xá Quốc tế Amnesty và của Thủ Tướng Thụy Điển, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phải trả tự do ngày 3 tháng 8 năm 1997 sau hơn 20 năm tù đầy trong đó bị cùm chân tay gần chín năm trong xà lim.


Sau hơn 9 năm cầm giữ trong nước không cho xuất ngoại vì “Nguy hiểm đến an ninh quốc gia”. Do sự can thiệp, ngày 2 tháng 9 năm 2006 mới sang đoàn tụ với gia đình tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, Phạm Trần Anh đã tìm tòi nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt. Đồng thời anh cũng âm thầm cùng với Thượng Tọa Thích Thiện Minh, TT Thích Không Tánh, cư sĩ Trần Hữu Duyên chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Phật Giáo Hòa Hảo … thành lập Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam do Thượng Tọa Thích Thiện Minh làm Hội Trưởng. Sau khi mời các Linh mục Nguyễn văn Lý, Phan văn Lợi, Mục sư Trần Mai, Nguyễn Hồng Quang, Cư sĩ Lê Quang Liêm, Cư sĩ Trần Hữu Duyên CT Ủy Ban Bảo vệ Phật giáo Hòa Hảo, GS Nguyễn Mạnh Bảo Cao Đài làm cố vấn cho Hội, Phạm Trần Anh mới lên đường xuất ngoại sang định cư tại Hoa Kỳ.


Trong cương vị Phó Hội Trưởng đặc trách ngoại vụ, Phạm Trần Anh tích cực vận động công luận quốc tế và đồng bào Hải ngoại ủng hộ các chiến sĩ Dân chủ đấu tranh cho tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam.


Sau ngày cộng sản Việt Nam xâm chiếm miền Nam Việt Nam, anh làm giả lý lịch gia đình “cách mạng” để cùng với thi sĩ Tú Kếu (Trần Đức Uyển) thành lập Mặt trận Người Việt Tự do Diệt cộng Phục quốc, tiếp tục đấu tranh cho Tự do Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. Tháng 7 năm 1977 anh bị bắt và đưa ra cái gọi là toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử với tội danh: Âm mưu Lật đổ chính quyền Cách mạng! Toà án CS đã kết án Chung thân với tội danh: “Phạm Trần Anh là một tên cực kỳ phản động, ngoan cố, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, cấu kết với các thế lực phản động trong và ngoài nước để lật đổ chính quyền cách mạng ...”.


Sau gần chín năm cùm chân trong xà lim và hơn 11 năm lao động khổ sai trong các trại tù khắc nghiệt nhất của chế độ Cộng sản, anh được sự can thiệp của Thủ tướng Thụy Điển cũng như các Hội đoàn tranh đấu cho nhân quyền, Hội Ân xá Quốc tế International Amnesty nên chính quyền Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải trả tự do cho anh ngày 3 tháng 8 năm 1997 sau hơn 20 năm tù ngục.


Trong thời gian tù đầy, anh vẫn kiên cường bất khuất kiên định lập trường quốc gia dân tộc nên đã bị Cộng Sản tra tấn đánh gãy hai hàm răng, mắt bị mờ hậu quả của gần 9 năm cùm chân còng tay trong phòng tối nên phải thay cả hai thủy tinh thể nhân tạo hiện anh đang điều trị bệnh tật hậu quả của thời gian lao lý gần nửa đời người của anh.


TRƯỚC NGÀY MẤT NƯỚC 30 tháng tư năm 1975, tôi có duyên gặp và quen anh ở Câu Lạc bộ Phấn Thông Vàng ở đường Nguyễn Thông do anh Nguyễn Thùy là chủ nhiệm. Buổi tối hôm đó, trong sinh hoạt hàng tuần vào tối thứ bảy, nhà thơ Phan Lạc Giang Đông giới thiệu tôi trình bày đề tài: “Thi sĩ và cuộc đời”. Tôi còn nhớ như in buổi tối hôm đó có cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhà văn Hoàng Xuân Việt, nhà văn Bùi Nhật Tiến, Hồ Trường An, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Phương Đài, Hoàng Trúc Ly, Diễm Phúc, Kiêm Thêm, Huy Bằng, Ngọc Tự, Hà Thuỷ, Lê Trường Đại, Tô Duy Khiêm, Tô Nguyệt Điền, Dương Khanh, Định thị Thuỵ Yên, Anh Hải và Phạm Trần Anh cùng các anh chị em sinh viên, các em học sinh các trường Bồ Đề, Nguyễn Trường Tộ, nguyễn Công Trứ đến tham dự đông đủ …


Lúc đó tôi biết Phạm Trần Anh qua sự giới thiệu của Trần Ngọc Tự và Phan Lạc Giang Đông nhưng chưa lấy gì làm thân lắm vì anh cũng như các anh Hoàng Tổng, Huy Lực và Nguyễn Trọng Nho tốt nghiệp kỹ sư sau làm dân biểu Hạ viện còn tôi là con người của văn nghệ, diễn ngâm trong chương trình Thi văn Tao Đàn, chủ trương cơ sở xuất bản Nhân Chứng rồi làm Trưởng ban Văn học nghệ thuật Đài Truyền hình Sài Gòn từ 1970-1975. Thế nhưng, tôi mến mộ Phạm Trần Anh vì anh là người đam mê sôi nổi, cởi mở và thẳng thắn rất dễ thân quen nên phải nói rằng Phạm Trần Anh là con người của đám đông của quần chúng. Phạm Trần Anh là người có tâm hồn văn nghệ, đặc biệt trong anh còn ấp ủ một lý tưởng dân tộc, phục vụ nhân sinh: đấu tranh cho dân chủ tự do, một xã hội công bằng nhân ái.


Sau hơn hai mươi năm lao lý trở về, nụ cười vẫn nở trên môi con người lúc nào cũng lạc quan yêu đời, Phạm Trần Anh đã lặn lội đi tìm lại những bạn bè thân quen xưa cũ để hàn huyên tâm sự như không có gì xảy ra trong cuộc đời của một con người trải qua hai mươi năm tù. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh không nhắc gì về một nửa đời tù của anh. Tôi hỏi, anh cười vui rồi nói: “Chuyện nhỏ mà, mình xem nó như là một giấc ngủ trưa!”. Anh say sưa kể lại những đoạn đường chiến binh của một chiến sĩ lao tù mà khi nghe xong thì những quần đảo ngục tù ngày xưa tôi đọc với sự sự cảm phục ghê gớm thì bây giờ chẳng nghĩa lý gì với nơi địa ngục trần gian mà bạn tôi và biết bao người yêu nước đã đi qua…
Nhắc lại chuyện hôm ra tòa, Anh kể trước khi tuyên án tên chánh án hỏi tôi: Anh có nhận tội không? Phạm Trần Anh đã hiên ngang nói trước tòa án Cộng Sản: “Tôi là người Việt Nam yêu nước chống Cộng sản, tôi không có tội gì cả. Đối với xã hội chủ nghĩa của các anh thì tôi có tội, các anh muốn xử gì thì xử nhưng với đồng bào Việt Nam của tôi, tôi chỉ có tội vì chưa làm được những gì mà đồng bào tôi mong muốn. Đời tôi để lịch sử xử, Xin đồng bào tha lỗi cho tôi ..!”.


Nói xong anh chào tay đồng bào đang ngồi dưới hội trường Trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Cả hội trường vỗ tay quên cả sợ sệt, mấy bà mẹ Việt Nam khóc thút thít rồi cúi mặt lau nước mắt, một số người cầm lòng không được đứng dậy bước ra ngoài, không khí xôn xao hẳn lên ngoài tiên liệu của cộng sản khiến tên chánh án đập bàn liên hồi. Mấy tên công an đứng cạnh anh hốt hoảng kéo xuống rồi đè ra còng tay lại. Chúng tức giận xiết còng tay khiến tay anh sưng vù, máu bầm lại …


Trên đường giải giao về trung tâm Thẩm vấn Đà Lạt, Tú Kếu nhìn anh có vẻ thương hại nói: Bác có chống án không? Anh trả lời: “Không, dứt khoát là không vì mình có công nhận toà án cũng như chế độ nó đâu mà chống với không chống án ...”. Tú Kếu nhe răng ra cười: “Bác nói phải, chí phải. Tôi tưởng bác bị tử hình thì bác không chống tôi cũng chống để kéo dài thời gian ra may cứu được bác. Còn bây giờ thì không dứt khoát là không”. Anh xúc động vì bạn mình hiểu và thương mình, anh cười nói với anh em: “Chuyện nhỏ mà các bạn, Mình còn là còn tất cả, cứ xem như một giấc ngủ trưa phải không các bạn ?”. Anh em cười vui vẻ và không một ai chống án cả. Lúc công an giải ra xe, Bà con cô bác chạy theo người nắm tay, kẻ ném quà bánh thuốc hút đầy cả xe. Bọn công an xô đuổi cũng không được đành đứng nhìn một cách bất lực. Tên trưởng đoàn bèn vội ra lệnh cho xe chạy, bà con vẫn chạy theo, kẻ chửi người la í ới … “Ôi, những hình ảnh thân thương đó làm sao mà mình có thể quên được...”.


Viết về Phạm Trần Anh trong các trại tù cộng sản hơn 20 năm “Người tù lương tâm của Việt Nam”, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã kể lại trong Hồi ký “Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày” như sau: “Ông Phạm Trần Anh, một người anh em kết nghĩa hoặc gọi là kết bạn vong niên. Anh tốt nghiệp Ban Đốc sự Học viện Quốc Gia Hành Chánh và Cao học Chính trị xã hội đã từng giữ chức vụ Phó Quận Trưởng, Quản Đốc, Trưởng Ty Hành Chánh tỉnh Lâm Đồng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ông có tấm lòng rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Ông có trình độ nhận thức cao, có đầy đủ chí khí và tinh thần nhiệt huyết, phong cách bình dị, sống gần gũi anh em, rất thông cảm với anh em đồng tù, đặc biệt là đồng bào thiểu số và những người nghèo khổ bệnh tật. Ông thường tới lui an ủi tâm sự với những người có trình độ thấp hoặc khốn khó bơ vơ trong tù. Ông đã từng leo rào vào thăm hỏi, ăn uống với anh em bị bệnh lao ở trại tù Xuân Lộc mà không sợ bị kỷ luật, lây nhiễm gì cả.
Dù biết rằng trong cuộc đời là ”Nhân vô thập toàn” ắt hẳn không ai hoàn hảo cả, bản thân tôi và ông cũng thế. Tôi luôn luôn nghĩ rằng “Nhân tận kỳ tài”, mỗi người sinh ra trên đời đều có một tài năng riêng nhưng chưa biết đúng chỗ phát huy. Tôi hy vọng mọi việc hanh thông sẽ dành phần cho người tốt như ông. Ông Phạm Trần Anh đối với tôi có 4 điểm, anh vừa là người anh kết nghĩa, vừa là người bạn đồng tù cùng chí hướng, vừa là một Phật tử rất kính trọng thầy tu, lại vừa là mạnh thường quân giúp đỡ tôi rất nhiều trong những tháng năm tù đày nghiệt ngã.
Trải qua nhiều năm dài, ông luôn luôn giữ trọn tình trọn nghĩa, tôi vô cùng trân trọng. Mặc dầu, ngày được trả tự do anh gặp nhiều nghịch cảnh éo le. Thời gian tù đày, người vợ vượt biên sang nước khác, nay đã không còn sống với ông nữa. Khi ông trở về hoàn toàn cô quạnh, sự nghiệp trắng tay và phải tự chuẩn bị cho mình một cuộc sống mới, chắc chắn ông phải đương đầu hoặc ẩn nhẫn với một xã hội có nhiều định kiến. Tôi luôn luôn tin tưởng một người có nghị lực và ý chí mạnh mẽ như ông sẽ vượt qua tất cả những khúc khuỷu gập ghềnh của cuộc đời. Trước nhất cần phải giữ “Nhẫn nhục phụ trọng”, chịu đựng cảnh “Nghịch thủy hành châu” để một ngày không xa sẽ tận hưởng “Khúc chung tấu nhã”. Tôi luôn khắc ghi những tình cảm tốt đẹp của ông trong tâm khảm của mình nên ghi tên ông đầu tiên trong những ân công của tôi trong tập hồi ký này …”.


Phạm Trần Anh kể lại với tôi rằng ngày trở về: “Tôi mỉm cười như tự nói với lòng mình “Một giấc ngủ trưa thế mà dài cả 20 năm trời ...”. Tôi còn nhớ hôm anh em văn nghệ sĩ Sài Gòn tham dự buổi tiệc đưa nhà văn Uyên Thao đi Mỹ, nhà thơ Lê thị Kim đến hỏi tôi:“Anh Đức, anh Phạm Trần Anh đâu?”. Tôi chỉ bạn tôi, nhà thơ Lê Thị Kim chạy tới nắm chặt tay Phạm Trần Anh và nói: “Cho Kim được bắt tay người tù bất khuất hai mươi năm ...!”. Câu nói của người đẹp khiến tôi sực nhớ tới giấc ngủ trưa, vâng một giấc ngủ trưa của Phạm Trần Anh dài hơn 20 năm gần nửa đời người...


Sau khi đi tù về anh dành hết thời gian còn lại để hoàn thành công trình biên khảo lịch sử tìm về cội nguồn Việt tộc: Việt Nam, Đất Nước và Con Người gồm:


1. Nguồn Gốc Việt Tộc(1999).
2. Việt Nam Thời Lập Quốc (2000).
3. Việt Nam Thời Vong Quốc (2001).
4. Việt Nam Thời Độc Lập (2002).
5. Quốc Tổ Hùng Vương(2003).
6. Huyền Tích Việt (2004).
7. Sử Thi Đại Việt Nam (2005).
8. Còn Một Chút Gì (Thơ).


Ngoài công trình nghiên cứu tìm về nguồn cội dân tộc, Anh còn góp mặt trong các Tuyển tập Duyên Thơ (1999), Hương Tình Yêu (2000), Tiếng Thơ (2001), Về Nguồn (2002), Tri Kỷ Hành (2003), Dáng Thơ (2004) Hương Quê (2005).


Chúng tôi gặp lại nhau sau 28 năm xa cách, hai anh em ngồi nhắc nhớ những kỷ niệm một thời ở câu lạc bộ Phấn Thông Vàng, nhớ tới anh em thân hữu, bạn bè kẻ còn người mất !!! Một nỗi buồn lắng đọng tâm tư, cả hai không hẹn mà cùng buông tiếng thở dài ... Tôi chợt nhớ tới cái anh chàng lãng tử dạo nào ở Sài Gòn với cuộc sống lãng du, một tâm hồn lãng đãng dễ thương làm thơ hay ra phết và cô bé Trinh ngày đó, mỗi lần lên hát cũng lại bổn cũ soạn lại: “Con đường xưa em đi, người ta mắc dây chì thế là em hết đi …” giờ này chắc cũng làm bà ngoại bà nội rồi còn gì ..!?.


Phạm Trần Anh bây giờ đã bỏ Sài Gòn lên Lái Thiêu làm vườn nói là đào ao nuôi cá, vui thú điền viên để thư giãn tinh thần nhưng thực ra là để dồn hết tâm sức vào đam mê mới là tìm về nguồn gốc dân tộc, từ truyền thuyết tới hiện thực lịch sử. Tôi thắc mắc vì cả nhà anh đã ở bên Mỹ mà bây giờ trở về vẫn ở lại đây để cho công an theo dõi khó dễ đủ điều. Anh tâm sự với tôi là anh không thích đi Mỹ dù có điều kiện để đi vì sống ở đâu cũng không bằng ở quê hương mình dẫu cho khó thương, nói theo bài hát của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang. Tôi ngầm hiểu ẩn ý sau câu nói của Phạm Trần, tôi hiểu thương và nể phục quyết định ở lại Việt Nam của bạn tôi. Phạm Trần Anh tâm tình với tôi là: “Bây giờ bà cụ đã hơn tám mươi tuổi rồi và cũng đã lẫn rồi, lúc nhớ lúc quên. Bạn cũng hiểu tính tôi mà, tôi không có ý định rời bỏ quê hương mà không đi thì lỗi đạo làm con mà đi thì bị khó khăn ngãng trở đủ điều. Thôi thì việc đời hơi đâu mà lo, cái gì tới nó sẽ tới thế thôi ...”.

Thật vậy, theo lời kể lại của Phạm Trần thì trước khi ra tù, một Đại tá cục an ninh của nhà nước cộng sản đến gặp và yêu cầu viết một tờ cam đoan là sau khi được tự do sẽ không chống đối chính quyền CHXHCNVN nữa. Anh không chịu cam kết và chỉ viết: “Kể từ ngày 3 tháng 8 năm 1997, dù muốn dù không tôi cũng là công dân của cái gọi là nhà nước cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nếu tôi làm bất cứ điều gì chống lại chính quyền thì cứ việc truy tố theo pháp luật của nhà nước CHXHCNVN thế thôi”. Sau khi anh không viết, tên đại tá nói: “Tuy ông được tự do nhưng ông nên nhớ là chúng tôi theo sát ông từng giờ từng ngày, đừng có hòng qua mặt chúng tôi. Tôi nói thẳng là tinh mạng của ông nằm trong tay chúng tôi. Ông có đi Mỹ được hay không cũng do chúng tôi quyết định. Tuy ông có hồ sơ đi Mỹ nhưng chúng tôi vẫn có cách để giữ lại nếu chúng tôi thấy ông là đối tượng nguy hiểm bất lợi cho chúng tôi ...”.


Khi về lại Sài Gòn theo thủ tục phải trình diện địa phương, công an thành phố cũng bổn cũ lập lại là yêu cầu anh cam kết đủ điều, anh từ chối dứt khoát dù biết rằng sẽ phải đương đầu chấp nhận mọi khó khăn cản trở từ chính quyền cộng sản. Đầu tiên là vấn đề hộ khẩu, anh cũng đi làm nhưng thiếu giấy tờ chứng minh đã từng cư ngụ ở Sài Gòn nên bị từ chối. Anh nói với công an thành phố là: “Tôi đã làm đầy đủ thủ tục qui định, nếu cơ quan công an khó dễ là do chế độ cộng sản chủ trương mà thôi. Từ ngày mai, tôi sẽ không làm bất cứ thủ tục nào nữa. Tôi lên làm vườn trên Lái Thiêu, chỗ đó hẻo lánh các anh tha hồ mà tổ chức gây án hình sự cướp bóc giết người để sát hại tôi”. Tên Trung tá vội thanh minh thanh nga nhưng cũng hàm ý đe dọa “Nhà nước không hề có chủ trương đó, ông cứ yên tâm tôi đảm bảo với ông là không có chuyện đó nếu ông không chống lại nhà nước ...”.


Anh nói với tôi là anh hiểu rõ là cộng sản lúc này phải dùng đối sách mềm dẻo “Mềm nắn rắn buông” để tránh những phản ứng bất lợi cho họ nên anh cương quyết không nhượng bộ bất cứ yêu sách nào, đề nghị nào. Anh nói thẳng phủ đầu trước những ý đồ của họ để chặn tay bọn cộng sản vốn không từ bỏ bất cứ thủ đoạn hèn hạ nào. Một tuần sau, hội trí thức yêu nước thành phố gửi giấy đề nghị kê khai bằng cấp để mời anh tham gia, anh cũng kê khai nhưng phần nguyện vọng ghi rõ là tình trạng sức khoẻ đau yếu cũng như tri thức đã lâu, thời gian tù tội lâu ngày nên chẳng còn nhớ gì cả nên không thể tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Một thời gian sau, công an khu vực đưa giấy tờ đến điền vào giấy tờ xin hộ khẩu rồi đi làm cái gọi là “Chứng minh nhân dân”. Anh nói nếu mình nhượng bộ dù một chút thì dần dần sẽ bị vương mắc áp lực hoài nên tôi cương quyết ngay từ đầu và cũng nhờ vậy mà trong suốt thời gian ở Việt Nam tôi chẳng đi họp hành khu xóm một buổi nào, không đi bầu biếc gì và ngay những ngày mà họ gọi là lễ lớn mà nhà anh cũng không treo cờ quạt gì. Họ biết nhưng cứ lờ như là không có vấn đề gì xảy ra nhưng đó cũng là một trong những lý do họ đã cản trở việc anh xuất ngoại đoàn tụ với gia đình hơn 9 năm trời.


Anh tâm sự “Mẹ tôi và cả gia đình bên Mỹ thì sợ ở lại sẽ bị Cộng Sản hãm hại nên cứ ép phải ra đi bằng mọi giá. Lại thêm cô vợ sau này cũng muốn thoát khỏi cảnh cộng sản o ép khủng bố, hù doạ đủ điều. Tôi cũng đành chiều ý gia đình làm lại thủ tục xuất cảnh. Khi đến sở xuất nhập cảnh để lấy passport thì họ lại yêu cầu cam kết là khi xuất ngoại không chống phá nhà nước, tôi cũng nói thẳng với họ là “Các anh đã biết là ngay khi còn ở trong tù tôi cũng chẳng cam kết một điều gì và bây giờ tôi cũng chẳng cam kết gì cả. Đi hay không là tùy các anh thế thôi”. Thấy tôi kiên quyết thì họ cũng phải cấp “hộ chiếu” cho có lệ. Mình cũng tưởng cộng sản hù hè mình vậy thôi mà cuối cùng họ cũng 2 lần cản trở qua việc cấp đi cấp lại giấy chứng nhận lý lịch 2 lần ghi phần tiền án không ghi án tiết chung thân chống cộng. Cô vợ tôi làm đơn khiếu nại mấy năm sau lại ghi là có án chung thân vì tội danh hoạt động lật đổ chế độ Cộng sản Việt Nam. Phía Mỹ thì họ quá biết nhưng lại trả lời ẫm ờ là “Sở Tư pháp Thành phố cấp giấy mâu thuẫn với những điều tôi khai nên phải check lại”. Tôi hiểu là họ muốn gì nên không tính đi nhưng nhà tôi không chịu tiếp tục khiếu nại. Hiệu lực của giấy chứng nhận đã hết lại phải làm lại thì họ lại ghi là tiền án không, khiếu nại lần nữa thì họ lại ghi là có án chung thân. Sự việc cứ quẩn quanh cản trở mãi hơn 9 năm sau thì giấy tờ mới xong. "Cuối cùng là mẹ tôi mất bên Mỹ mà tôi vẫn chưa qua được, đành cam tội bất hiếu vậy thôi”. 

Tôi cười nói với Phạm Trần Anh là “Tôi coi tử vi thấy cái số của ông là luôn luôn phải xa gia đình và cũng do tính khí trời phú cho ông là không giống ai, ngay từ hồi còn là sinh viên đã xác định lập trường dân tộc nên Mỹ chẳng ưa mà Cộng sản lại càng thù ghét. Chứ nếu là người của Mỹ thì nó bốc lâu rồi mà dễ bảo thì cộng sản nó cũng đẩy đi từ lâu rồi”. Tôi nói tếu một câu: “Ông không nghe nghệ sĩ Ngọc Giàu nói một câu rất ư là cải lương nhưng lại rất đúng là giày dép còn có số huống chi là con người!”.


Bên trong con người lý tưởng đam mê cách mạng ấy là cả một tâm hồn văn nghệ, lại có tài làm thơ. Thơ tuy ít nhưng nhưng đi vào lòng người với các bài: Tháng bảy mưa Ngâu, Khi anh về, Chiều cuối năm và huyền hoặc đã được các nhạc sĩ Châu Kỳ, Quốc An, Lê Thụ, Lê Hoàng, Kỳ Vân đồng cảm phổ thơ. Thơ Phạm Trần đặc biệt luôn hướng về Quốc Tổ thấm đậm tự tình dân tộc, thơ đấu tranh và cả thơ tình nữa. Tôi thích bài Đối ẩm và bài “Lời thề sông núi” của Phạm Trần:


Mỗi ngày tù tội một lo âu
Bao năm mất nước bấy năm sầu
Một lòng thề nguyện cùng sông núi,
Yêu nước thương dân tới bạc đầu ...


Tôi nghĩ đời mình còn chút may mắn là cuối đời vẫn còn những người bạn tốt. Phạm Trần Anh là một trong những người bạn tốt hiếm hoi, hiểu, an ủi và khích lệ tôi trên con đường tiếp tục làm thơ cho đời Khi gặp lại bạn hiền, tôi thức cả đêm dịch lại 2 câu thơ của Bùi Giáng tặng Phạm Trần:


“Vĩnh dạ tư gia lại hà xứ,
Tàn niên tri nhữ viễn lai tình ...”
Vào đêm xưa gặp nay đâu ..
Cuối năm nghĩ lại, nhớ bao nghĩa tình!


Phạm Trần lấy làm tâm đắc đọc hai câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du làm trong tù diễn tả nỗi lòng thù nhà nợ nước, không biết sợ chết là gì:


Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Lục tuần lao ngục tử sinh tâm!


Phạm Trần nói, ngày xưa Đạt Ma Sư tổ thì ngồi diện bích, ngồi nhìn tường mà tìm ra yếu quyết của võ học, còn mình thì bất đắc dĩ nó cùm chân suốt chín năm trời, ngày hai buổi cứ nhìn trừng trừng vào bức tường, cũng diện bích lòng không biết sống chết là gì nữa …


Quốc phá gia vong, vong quốc hận ...
Cửu niện diện bích, bất tử tâm!


Tôi thích hai câu thơ Phạm Trần dịch của Nguyễn Du mà bất cứ ai một lần đến Huế sẽ không bao giờ quên được ánh trăng khuya huyền hoặc trên sông Hương: Hương giang nhất phiến nguyệt, Kim cổ hứa đa sầu!


Sông Hương một mảnh trăng trong 
Nhân gian muôn thuở sầu đong vơi đầy!


Đọc thơ Phạm Trần, những ai có một mối tình lớn của Tản Đà, một chút u hoài sẽ tâm đắc và cảm nhận như chính nỗi lòng của mình. Thật vậy, xin một chút lắng đọng tâm tư để đồng cảm với nỗi lòng của Phạm Trần qua những vần thơ, thơ mà rất thật, thật mà như thơ. Để thay lời kết chương hồi ký viết về Phạm Trần Anh, xin tặng anh bài thơ kỷ niệm sau 23 năm ngày gặp lại:


Hai mốt năm qua trọn nghĩa tình,
Mặc ba đào sóng gió chông chênh
Vẫn vững tay chèo khi nước ngược,
Thuyền vẫn đến bờ, lúc gió lên ...
Xưa nay đời luận chi thành bại,
Ngọn bút vung lên xoá hận thù
Hồn rượu núi sông say Tổ quốc,
Đối mỹ nhân hề … chí trượng phu!
Sài Gòn Lập Đông Mậu Dần


PHỔ ĐỨC


QUỐC TỔ


Cúi đầu tưởng nhớ vua Hùng
Hồn thiêng sông núi trùng trùng uy linh
Giang sơn gấm vóc hữu tình
Hùng Vương Quốc tổ văn minh Tiên Rồng …


Mùa Giỗ Tổ 4877


CHUNG THÂN CHỐNG CỘNG


Quyết chẳng chung trời với cộng nô
Cùng nhau xây dựng lại cơ đồ
Đồng tâm quyết chí xoay lịch sử
Tám chục triệu người cất tiếng hô …
Yêu nước đâu nề vòng gian khổ
Thương dân há sợ cảnh cùm gông
Vì dân Cứu nước lời sông núi
Quốc thái dân an mộng hải hồ...


Ngày Cộng Sản xử án chung thân
3-8-1998

Monday, January 25, 2016

KHƠI DÒNG SỬ VIỆT

Người phụ nữ gốc Việt đoạt hai “Nobel Thiên văn”

Niềm tự hào của người Việt
Đó là nữ khoa học gia Vật lý thiên văn nổi tiếng nhất Việt Nam và thế giới, có tên Việt đầy đủ là Lưu Lệ Hằng, viết trong hồ sơ ở ngoại quốc là Jane X. Luu. Còn trẻ nên hẳn có thể xưng hô thân mật là cô Hằng hay chị Lưu.
Sinh năm 1963, mang dòng máu cả cha và mẹ xứ Bắc, lớn lên và học tiểu học ở miền Nam, năm 1975 sang Mỹ và hoàn thành học vấn ở các trường nổi tiếng: 1984 nhận bằng Cử nhân Vật lý thủ khoa tại Đại học Stanford, bằng Thạc sĩ Cao học tại Viện Berkeley thuộc Đại học California và cuối cùng, năm 1990 bằng Tiến sĩ Vật lý Thiên thể ở Viện Công nghệ Massachussetts MIT.
Nobel Thiên văn học, Thiên văn học, Nobel thế giới, Nobel Phương Đông, Lưu Lệ Hằng, Jane X. Luu
Hình 1-  Những chủ nhân của Giải “Nobel châu Á” – Giải Shaw năm 2012 (Ảnh tư liệu từ Giải Shaw)
Với tư chất thông minh và nghị lực bẩm sinh, niềm say mê và điều kiện học tập, nghiên cứu hàng đầu thế giới, các kết quả học tập và nghiên cứu xuất sắc đạt được trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu Cao học và Tiến sĩ đã đưa tên tuổi nhà khoa học Jane X. Lưu nổi tiếng như một một phụ nữ trẻ thông thái với một khối kiến thức rộng lớn cổ kim về bầu trời vô hạn gần xa, đặc biệt đã đi tiên phong trong những phát minh đặc sắc lớn và hiện đại nhất, mở rộng tầm nhìn của loài người về những chân trời bao la, rất xa.
Và chính những thành tựu lao động sáng tạo đó đã mang lại cho Lưu Lệ Hằng những giải thưởng danh giá, đồng thời đưa chị lên những bậc thang danh giá, đặc biệt đối với môt phụ nữ gốc nước ngoài, trong sự nghiệp giảng dạy đại học là Giáo sư ở Đại học Havard, Mỹ (1994 – 1998) và Đại học Leiden, Hà Lan (1998 – 2001) và trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học là nghiên cứu viên cao cấp danh dự ở các địa chỉ danh tiếng lớn như các Phòng Thí nghiệm ở Đại học Havard, Viện Khoa học Khảo sát Không gian ở Đại học Hawaii, các Trung tâm nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Massachussetts MIT…
Phát triển nhận thức Thái Dương Hệ     
Đên bây giờ đó là sự nghiệp lớn nhất của nhà khoa học nữ Lưu Lệ Hằng. Sự hiểu biết của nhân loại về Hệ Mặt Trời (hay Thái Dương Hệ) đã thay đổi rất nhiều mang tính cách mạng trong vài chục năm qua. Và nhà bác học nữ họ Lưu không những nắm vững nhanh chóng kiến thức phong phú thu thập được trong nhiều thế kỷ qua về Thái Dương Hệ mà chính chị đã đóng góp vào kho tàng đó bằng những phát minh đặc sắc làm thay đổi nhận thức của con người về không gian vũ trụ bao la mình đang sống.
Khoảng mươi năm trước, cấu trúc của Hệ Mặt Trời Dương Hệ vẫn còn được hình dung đơn giản so với bây giờ (xem hình số 2).
Nobel Thiên văn học, Thiên văn học, Nobel thế giới, Nobel Phương Đông, Lưu Lệ Hằng, Jane X. Luu
Hình 2- Cấu tạo Thái Dương Hệ.
Thái Dương Hệ được mô tả là một hệ các hành tinh, Mặt Trời nằm ở chính giữa và bao bọc bên ngoài bởi 9 thiên thể chịu sức hút của Mặt Trời, gồm 8 hành tinh chính và 1 hành tinh “phụ”, hợp thành 3 nhóm.
Nhóm I ở vùng trong cùng, gồm 4 hành tinh nhỏ: Thủy tinh (Mercury), Kim tinh (Venus), Trái đất (Earth) và Hỏa tinh (Mars), đây là những hành tinh nhỏ, rắn chắc, cấu tạo chủ yếu bởi các loại đá và kim loại, có mật độ cao và thành phần tương đối giống nhau nên có tên gọi là nhóm các hành tinh đá.
Nhóm II ở vùng ngoài, gồm 4 hành tinh khí khổng lồ có khối lượng lớn hơn rất nhiều so với 4 hành tinh nhóm I. Trong đó, 2 hành tinh lớn nhất, Mộc tinh (Jupiter) và Thổ tinh (Saturn), có thành phần chủ yếu từ heli và hyđrô; và hai hành tinh nhỏ hơn, Thiên vương tinh (Uranus) và Hải vương tinh (Neptune), có thành phần chính từ băng (như nước, amoniac và mêtan). Chúng có kích thước rất lớn nhưng mật độ thấp và vì vậy có khi còn được gọi là phân nhóm các hành tinh băng đá “khổng lồ”.
Nhóm III trong nhiều năm trước được cho rằng chỉ có một mình Diêm vương tinh (Pluto).  
Nhận thức về cấu trúc Thái Dương Hệ như trên cho tới cuối thế kỷ 20 đã tỏ ra chưa đầy đủ, chưa giải thích được tất cả thông tin do các thiết bị khảo sát thiên văn hiện đại thu thập được. Lưu Lệ Hằng đã nhập cuộc vào chính giai đoạn này bên cạnh nhà nghiên cứu thiên văn bậc thầy David Jewitt ngay trong thời gian làm nghiên cứu sinh bậc Cao học và bậc Tiến sĩ Vật lý Thiên văn. Cả hai người chính là chủ nhân và là nòng cốt thực hiện đề tài nghiên cứu về một hướng khoa học mới mẻ và táo bạo – Khảo sát các vật thể di chuyển chậm (Slow-Moving Objects) ngoài Hệ Mặt Trời.
Họ tiến hành nghiên cứu chứng minh cho sự tồn tại một vành đai gồm một “rừng” vô số hành tinh lớn bé phân bố từ bên ngoài quỹ đạo của Hải Vương tinh (Neptune), vượt qua Diêm vương tinh (Pluto) và ra xa hơn. Vành đai này có tên là vành đai Kuiper (Kuiper Belt) do hai nhà thiên văn Edgeworth và Kuiper đặt ra trong tưởng tượng từ giữa thế kỷ 20. Miệt mài 5 năm làm việc, sử dụng các phương tiện nghiên cứu tiên tiến nhất ở Trung tâm nghiên cứu MIT và Đại học Harvard, ở các cơ sở thiên văn Kitt Peak (thuộc Arizona) và Mauna Kea (thuộc Hawaii), năm 1992 Jewitt và Luu tìm ra được thiên thạch đặt tên là 1992 QB1 có đường kính 280 km (bằng 1/8 Diêm vương tinh hay Pluto). Và tiếp theo là hàng chục khám phá nữa của bản thân nhóm nghiên cứu này và hàng trăm khám phá khác của đông đảo cộng đồng thiên văn trên toàn thế giới.
Tất cả đều chứng tỏ ở không gian bên ngoài quỹ đạo của Hải vương tinh (Neptune) tồn tại các vật thể lớn bé có thành phần cấu tạo nhẹ như nước, amoniac, mêtan. Đó là hàng nghìn thiên thể nhỏ bé có kích cỡ khác nhau, từ sao chổi, centaurs đến bụi liên hành tinh. Trong số đó có 5 thiên thể nhĩnh lên về kích cỡ, là Ceres, Haumea, Makemake, Eris và cả Pluto (Diêm vương tinh) nữa. Các hành tinh này, dù được coi là đủ lớn để có được dạng hình cầu dưới ảnh hưởng của chính lực hấp dẫn của mình, nhưng do độ xốp cao (mật độ vật chất rất thấp) hay tổng khối lượng vẫn bé nhỏ, nên kể từ tháng 8 năm 2006 nhóm các hành tinh này được mang tên là nhóm hành tinh lùn. Nhóm “lùn” này chính là nhóm III trong sơ đồ cấu trúc Thái Dương Hệ (hình 2) mà trước đây chỉ mới biết một mình Diêm vương tinh Pluto.
Vậy là sự tồn tại trong thực tế vành đai Kuiper mà thầy trò hay hai đồng nghiệp Jewitt và Lưu theo đuổi thực hiện đã được minh chứng. Phát minh này có ý nghĩa rất lớn, nó mở đầu cho một kỷ nguyên mới về nhận thức đầy đủ hơn về cấu tạo Thái Dương Hệ và góp phần hoàn chỉnh dần học thuyết hình thành vũ trụ. Sự tồn tại vành Kupler cũng không có gì đáng nghi ngờ vì sự tồn tại một Vành đai tiểu hành tinh khác nữa nằm giữa Hỏa tinh (Mars) và Mộc tinh (Jupiter), tuy thành phần cấu tạo khác hơn với phần lớn là đá và kim loại, cũng đã được xác định trước đó.
Với những thành quả nghiên cứu đạt được, nữ khoa học gia họ Lưu đã liên tiếp nhận được những phần thưởng danh giá của khu vực và thế giới. Năm 1991, ngay sau khi nhận bằng Tiến sĩ không lâu, Hiệp hội Thiên Văn Mỹ đã trao Giải thưởng Annie J. Cannon Award Thiên văn học cho Tiến sĩ mới gốc Việt Lưu Lệ Hằng. Và để ghi nhận công lao của chị trong việc tham gia khám phá hơn 30 thiên thạch hay tiểu hành tinh mới, người ta lấy tên của chị đặt cho một thiên thạch mới do chính chị khảo sát và phát hiện, đó là Asteroid 5430 Luu.
Đặc biệt, năm 2012 quả là năm của nhà Vật lý Thiên văn ưu tú này khi cái tên Lưu Lệ Hằng được xướng danh ở cả hai giải thưởng thiên văn học danh giá nhất thế giới trong cùng một năm. Tháng 3 năm 2012, tại thủ đô Oslo của Na Uy, Quỹ Kavli đã công bố Giải Kavli Thiên văn học năm 2012 với số tiền thưởng 1 triệu USD. Giải này được xem là Giải “Nobel Thiên văn thế giới” và chủ nhân là ba nhà thiên văn đã khám phá ra nhiều vật thể lớn trong vành đai Kuiper, đó là David Jewitt, Jane X. Luu (tức Lưu Lệ Hằng), và Michael Brown. Tiếp theo, tháng 5 năm 2012, tại Hồng Kông, Quỹ Shaw lại xướng danh các chủ nhân đạt Giải Shaw Thiên văn học 2012; còn gọi là “Giải Nobel Thiên văn Phương Đông” kèm 1 triệu USD tiền thưởng, đó là tân Tiến sĩ Jane X. Luu cùng với người thầy – đồng nghiệp của mình là Giáo sư David C. Jewitt, Giám đốc Viện nghiên cứu thiên thể (Institute for Planets and Exoplanets), Đại học California – Los Angeles, Hoa Kỳ.về những đóng góp trong việc định danh “các vật thể ngoài Hải Vương tinh” (Trans-Neptunian Objects), viết tắt là TNOs.
Lời kết
Với tài năng và thành quả nghiên cứu nổi bật, nữ khoa học gia người Việt Lưu Lệ Hằng quả là xứng đáng với sự tôn vinh khách quan của giới khoa học thiên văn và các tổ chức giải thưởng trên thế giới. Điều đáng suy nghĩ là sau 3 năm làm việc ở Hà Lan, năm 2001, nhà khoa học; nhà giáo này trở lại nước Mỹ nhưng không trở lại chức vụ nghiên cứu khoa học ở Viện nào hay ngồi lại chiếc ghế giáo sư ở đại học nào cả. Lưu Lệ Hằng nhận công tác tại Phòng thí nghiệm Lincoln của MIT, chuyên nghiên cứu chế tạo các thiết bị thiên văn và hiện nay lại nghiên cứu thêm giải pháp công nghệ cho vấn đề an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Và hiện nay chị vẫn sống bình dị cùng chồng tên là Hoogerwerf, một nhà thiên văn người Hà Lan và một con gái nuôi gốc Việt 6 năm tuổi tại Lexington, Massachusetts, gần đại học Harvard và MIT.
Có người đặt vấn đề: vì sao vậy? Song nhiều người lại cho rằng: không vì sao cả, đơn giản vì đó chính là bản chất, phẩm chất của Lưu Lệ Hằng như vốn có. Đối với người phụ nữ gốc Việt này, hình như lao động khoa học và các thành tựu mới mẻ thu được trong nghiên cứu lĩnh vực Thiên văn học mới thu hút được niềm đam mê chứ không phải là chức tước, vị trí và danh giá của viện này, đại học nọ.
Sau khi đạt đỉnh cao của nhà Thiên thể học và nhà Vật lý thiên văn, nay chị Lưu Lệ Hằng Đang đang làm việc trong lĩnh vực chế tạo thiết bị, trong đó các thiết bị tối tân hơn cho ngành thiên văn học. Nhưng chị còn trẻ, mới ở tuối 51. Biết đâu, một ngày đẹp trời nào đó, nhà nữ khoa học toàn năng họ Lưu lại không trở lại con đường vinh quang đã qua, dù đã xa rồi, nhưng sẽ ở một tầm cao khác.
Từ năm 1995 chị về thăm nước. Trong chuyến về Việt Nam năm đó chị đã được mời tham dự một cuôc hội thảo về khoa học vật lý ở TP. Hồ Chí Minh do các nhà khoa học Việt kiều phối hợp với đồng nghiệp trong nước tổ chức có tên “Sự Gặp gỡ Việt Nam”. Ở hội thảo năm 1995 nữ khoa gia Lưu Lệ Hằng đã trình bày bản báo cáo khoa học về các thành tựu nghiên cứu thiên văn học của mình.
Như vậy, biết đâu, trong một cơ hội nào đó, chị có cảm hứng cùng các đồng nghiệp ở các trung tâm thiên văn học Việt Nam bắt tay nhau để chị có cơ hội đi về đóng góp cho sự phát triển ngành Thiên văn học non trẻ ngay trên đất nước mình đã sinh ra?  Một việc làm mà trước đây nhiều nhà khoa học Việt Nam có tiếng thành danh ở Mỹ, Pháp và các nước khác đã làm và một số các nhà khoa học trẻ vừa nhận những giải thưởng và danh hiệu danh giá trên thế giới như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn… vẫn đang luôn sát cánh với đồng nghiệp trong nước thực hiện.
————-