Tuesday, March 31, 2015

ai gây ra nạn đói kinh hòang năm ất dậu 1945?












TRẬN ĐÓI THÁNG BA NĂM ẤT DẬU 1945

GS PHẠM CAO DƯƠNG
- See more at: http://www.dienhongthoidai.com/2015/03/ai-gay-ra-nan-oi-nam-at-dau-1945.html#sthash.SwHg38uF.dpuf

TRẬN ĐÓI THÁNG BA NĂM ẤT DẬU 1945

GS PHẠM CAO DƯƠNG

     Ðây là trận đói thê thảm nhất và khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam với hàng triệu người đã bị bỏ mạng, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân chính đã đưa tới biến cố 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, và tình trạng hiện thời của một nước Việt Nam lẽ ra ra đã có tự do, dân chủ và tiến bộ từ bảy mươi năm trước. Ðây cũng là một trang sử mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc, tìm hiểu và ghi nhớ. Không đọc, không hiểu và không ghi nhớ trang sử này người ta sẽ không hiểu được bản chất của Cách Mạng Tháng Tám và biến cố Việt Minh cướp chính quyền sau đó. Những câu hỏi cần được đặt ra là do đâu có nạn đói này? Nạn đói đã diễn ra như thế nào và được người Việt đương thời kể lại ra sao? và Cộng Sản Việt Minh đã thực sự làm gì trước tình cảnh thê thảm của đồng bào ta thời đó?
Do đâu có trận đói này?
Xảy ra dưới thời Vua Bảo Ðại và chính phủ Trần Trọng Kim nhưng thực sự trận đói này đã có nguồn gốc từ lâu trước đó còn chính phủ Trần Trọng Kim, một cách oan khuất, đã phải lãnh chịu tất cả mọi hậu quả, nhất là bị trách cứ là tay sai của Nhật, là bất lực. Trong khi đó thì Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản đã lợi dụng cơ hội tuyên truyền, sách động quần chúng, cướp chính quyền khi Nhật Bản đầu hàng.
Nói rằng trận đói này có nguồn gốc từ lâu là vì đồng bằng Bắc Kỳ và ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh dân số vốn dĩ đã đông, lại tăng thêm nhiều trong những năm cuối thập niên 1930 đầu thập niên 1940 trong khi diện tích canh tác lúa gạo hầu như không thay đổi, kỹ thuật sản xuất cho tới thời điểm này vẫn còn lạc hậu, sản lượng lúa gạo trong những năm bình thường chỉ vừa đủ cho người dân sống dưới khẩu phần trung bình cần thiết cho mỗi cá nhân. Ngô, khoai, sắn, đậu... phải được dùng để ăn độn thêm; nhiều khi những thứ này không còn đủ, họ phải ăn cám. Tại sao lại phải ăn độn thêm? Ta có thể giải thích dựa theo những con số do Y. Henry và De Visme cung cấp. Theo hai ông này, nếu khẩu phần trung bình cần thiết cho một người trong một năm là 337 kg thóc, tương xứng với 223 kg gạo thì người nông dân Việt Nam trong suốt thời kỳ Pháp thuộc không bao giờ có được khẩu phần này. Ngay từ năm 1900 con số đã giảm xuống còn 262 kg, năm 1913 còn 226 kg, và đến năm 1937 còn 182 kg. Ðây chỉ là những con số tính chung cho toàn cõi Ðông Pháp. Ở những nơi đông dân như Bắc Kỳ và miền Bắc Trung Kỳ, tình trạng thiếu ăn này còn trầm trọng hơn nhiều. Khoảng năm 1937, khẩu phần trung bình ở Bắc Kỳ chỉ có 217 kg thóc, tương đương với 143.5 kg gạo và ở Trung Kỳ là 223 kg thóc hay 154 kg gạo một năm. (1) Về phía người Việt Nam, Nghiêm Xuân Yêm, một chuyên gia nông nghiệp tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Nông Lâm đương thời, sau này là bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong các thập niên 1950, 1960, trong một bài viết đăng trên tờ Thanh Nghị, số 107, ra ngày 5 Tháng Năm 1945, nhan đề “Nạn Dân Ðói, Một Vài Nhận Xét và Thiển Kiến Về Vấn đề Thóc Gạo” cũng đưa ra nhận xét tương tự. Ông viết:
“Toàn xứ chỉ có ba tỉnh dưới đây là đại khái có thóc gạo vừa vặn đủ ăn không thừa để bán sang địa hạt tỉnh khác và cũng không phải đong thêm ở các tỉnh lân cận nào:
1) Bắc Ninh sản xuất: 800,000 tạ thóc, dân số: 480,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 192 kg thóc.
2) Phú Thọ sản xuất: 494,000 tạ thóc, dân số: 203,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 187 kg thóc.
3) Sơn Tây sản xuất 528,000 tạ thóc, dân số: 270,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 195 kg thóc.
Trung bình, cả 3 tỉnh, mỗi người dân 191 kg thóc một năm, vào khoảng 840grs gạo một ngày. Sở dĩ dân 3 tỉnh ấy đủ no với số gạo 840 grs một ngày là vì 3 tỉnh ấy trồng trọt được nhiều hoa mầu ngô, khoai, sắn... Còn các tỉnh khác đều kém ruộng trồng mầu cả. Vậy nếu ta căn cứ vào 3 tỉnh đủ ăn ấy, ta nhận thấy rằng: dù kể cả ngô khoai, sắn ăn lẫn với gạo thì theo sức sản xuất của mọi trồng trọt, mỗi người dân xứ ta vẫn còn cần phải được ít ra 191 kg thóc. Nghĩa là nếu ở toàn xứ, mọi sự trồng trọt hoa mầu dầu được tương tự bằng ở 3 tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Sơn Tây để có thể có đủ thức ăn độn thì dân cũng cần phải có tới 17,000,000 tạ thóc để ăn. Tóm lại đổ đồng hàng năm ta vẫn còn thiếu mất: 17,000,000 - 14,500,000 = 2,500,000 tạ thóc. Nhưng sự thực dân ta vẫn còn bị thiếu hơn vì các tỉnh khác có trồng được ngô khoai tương tự bằng 3 tỉnh kể trên đâu. Vậy ta có thể quả quyết nói rằng mỗi năm xứ Bắc này thiếu mất 3,000,000 tạ thóc là ít.
“Tôi xin nhắc lại rằng vì trong quá nửa nồi cơm của dân quê ta có trộn ngô khoai nên trên đây chúng ta mới tính thấy dân chỉ thiếu có ngần ấy thóc, chứ tôi chắc ai ai cũng biết rằng ăn độn ngô, khoai là một việc bất đắc dĩ. Vì ở các nước ngoài, những thứ kể trên thường chỉ dành riêng cho ngựa, bò hay lợn ăn thôi và gượng gạo dân quê ta thực trạng vẫn sống không bằng đàn gia súc của người ngoài. Bởi vì bình thường dân ta cũng đã thiếu ăn như thế nên hễ rủi gặp trận bão lụt... ắt nạn đói bùng lên nhất là từ hồi người Pháp mượn cớ chiến tranh lập ra chính sách thu thóc một cách tàn ác thái quá thì ròng rã mấy năm nay nông dân mỗi ngày một lâm vào cảnh cơ cực cùng quẫn và đến nỗi ở khắp đồng nội, thành thị ngày nay mới thấy những thảm trạng thây chết nằm ngổn ngang và người sống vất vưởng nheo nhóc như những hồn ma xuất hiện. Hàng triệu sinh linh ngày nay tranh ăn hết phần của súc vật. Cám, bã đậu phụ, rau chuối, củ chuối... là những thức ăn của lợn. Bây giờ dân ăn cơm độn với cám, ăn bánh đúc cám và cháo cám. Củ chuối ở Trung châu bị đào, ngoáy lên chừng sắp hết nên có người đã buôn củ chuối từ Trung du về xuôi với cái giá $150 một tạ. Vì người ta tranh ăn hết phần của chúng, nên lợn, chó, gà, vịt đều phải chết, và thịt thà trở nên một ngày một khan.”. Riêng chuyện ăn cám đã được nhà văn Lãng Nhân ghi trong một bài viết đăng trong Ðông Dương Tạp Chí, ngày 13 tháng 11 năm 1937, nhan đề “Lời Người Bán Cám” nguyên văn như sau: “Trong mấy năm nay, từ khi xảy ra nạn kinh tế đến giờ, chúng tôi buôn cám thật chạy tay. Những người đến mua không phải là mua về cho lợn, họ mua về để ăn. Gạo đắt quá, ngô khoai cũng đắt, nhiều người nhà quê phải đành ăn cám. Miễn là đầy bụng thì thôi. Mà ông lại nên biết rằng ăn cám cũng chia làm ba hạng người: Một hạng kiếm được dăm ba xu một ngày, mua cám về nấu lên với rau mà ăn, như lối ăn của lợn nhà giàu. Hạng nữa kiếm được hai ba xu một ngày chỉ trộn cám với nước lã rồi ăn như lối ăn của lợn nhà nghèo. Còn hạng thứ ba là gồm có những người như ông vừa thấy đó, nghĩa là những người không kiếm được xu nào cả, ngày hai buổi đi ngang qua dãy hàng cám, dừng lại mỗi nhà một lúc, mặc cả một đôi câu rồi vốc lấy ít cám bỏ mồm làm như để nếm. Cứ thế vừa đi hết dãy là no.
“Ở thành Nam là nơi không lụt lội mà còn bao nhiêu người ăn cám, không biết ở nơi bèo trôi sóng vỗ người ta được ăn những gì? “Xét ra người nhà quê phần nhiều phải ăn cám cũng là lẽ tất nhiên. Ði gặt hái một ngày chỉ kiếm được ba xu, khi không phải mùa gặt hái thì đi đánh giậm, một buổi khéo lắm được mười xóc cua, đem bán ba xu. Ba xu mà nuôi cha già, con dại, ba xu mà vợ đẻ con sài, ba xu mà đóng góp với làng, thật là ăn cám cũng không xong. Nào có được đâu một ‘số lương ít nhất’ như thợ thuyền. Nào có được như thợ thuyền làm có giờ, chơi có buổi! Lại cũng không họp được đoàn thể mà yêu cầu, không đình công được mà phản kháng. Quan bắt đi đê thì phải bỏ hết mà ra đê, có ‘cụ’ nào về kinh lý thì lại phải đẵn tre, vác cờ đi hàng chục cây số để bày hương án, kết cổng chào, tỏ lòng khuất phục! Bấy nhiêu việc đều là không công.” (2)
Tình trạng bấp bênh, trên bờ vực của đói kém này dễ trở thành trầm trọng hơn khi có những đại nạn bất ngờ xảy ra như hạn hán, lụt lội, bão táp, (3) côn trùng... phá hại mùa màng hay giặc giã cướp phá trong đó có sự cướp phá các kho thóc của Việt Minh, làm mất an ninh. Tất cả những tác tố này đã xảy ra từ những năm trước năm 1945 và đã trở thành trầm trọng hơn với sự bùng nổ của Thế Chiến Thứ Hai và sự hiện diện của quân đội Nhật. Nhu cầu tiêu thụ của quân đội Nhật, sự cưỡng bách người dân nộp và tích trữ gạo của cả người Nhật lẫn người Pháp, việc người Nhật ép buộc người dân phải bỏ ruộng trồng lúa để trồng đay, trồng thầu dầu hay đậu phọng và sản xuất thêm rượu do nhu cầu của chiến tranh, nạn máy nay Mỹ oanh tạc đường biển và đường xe lửa Bắc-Nam hàng ngày khiến gạo từ miền Nam không chở ra để tiếp tế cho miền Bắc như trong những năm bình thường (4), nạn lũng đoạn của gian thương, nhất là gian thương người Tàu là những nguyên nhân chính yếu đã được ghi nhận, đặc biệt là từ sau năm 1943.
Diễn tiến và thảm cảnh của trận đói
Bắt đầu từ mùa Ðông năm 1944 nạn đói đã lan rộng và trở nên mỗi ngày một trầm trọng hơn. Từ miền quê nạn khan hiếm gạo đã lan đến các thành thị và luôn cả thủ đô Hà Nội. Ðoàn Thêm, một công chức trẻ của Phủ Toàn Quyền đương thời, một trong số rất nhiều nhân chứng sống đã ghi lại hiện tượng này ở ngay Hà Nội như sau: “Từ Tháng Chạp (1944) không thấy bóng chị hàng sáo quen vẫn quảy gạo trắng từ ngoại-ô vào Hà-nội bán cho gia đình tôi; nghe nói thôn-quê không còn dư để cung cấp cho thành-phố nữa. Nên người nhà tôi phải đi đong gạo tiếp-tế vừa đỏ vừa rắn, lại phải mang thẻ phân phối đứng nối đuôi dài trước tiệm buôn lẻ và chầu chực hàng giờ; có khi đợi lâu quá, đành trả một vài hào (cắc) cho người đến trước để được nhường chỗ. Chỗ đứng cũng bị đầu-cơ do những kẻ chuyên đi choán sớm để buộc người nóng ruột bỏ tiền ra mua quyền ưu-tiên.” (5) Nhưng đó chỉ là buổi đầu, sau đó là dân quê rủ nhau tới các thành phố để kiếm ăn, vì tưởng ở đây thừa gạo dự trữ để cứu trợ, cũng theo lời kể của Ðoàn Thêm.
“Các hội thiện phải lập những trại tạm-trú ở quanh thành phố, như tại xã Giáp-nhất, Giáp-nhì, Giáp-bát, bãi cát Phúc-xá bên sông Nhị-hà: hàng ngàn người cầu thực được chứa tại đó, và cấp cháo nấu bằng gạo lạc-quyên. Nhưng số người cứ tăng mãi, cứu tế làm sao cho đủ? Bao hành khất hốc-hác như bộ xương ma, được đồng tiền không lấy, chỉ xin cơm. Một ông già đã quá đuối sức vừa nhận nắm xôi chưa kịp bỏ vào mồm, đã lăn ra tắt thở. Nhiều thây gục chết ở đầu hè, góc chợ, được chở ra nhà xác thủ-đô. Ở nhiều vùng dân chết cả nhà, cả xóm, hay gần cả làng. Hết gạo, hết khoai, hết chó mèo, hết chim, hết chuột, hết củ chuối, người ta làm thịt... con nít. Sự thảm khốc này dĩ nhiên là khó tin. Nhưng tới năm 1947, nhân dịp chạy tản cư về hạt Xuân-trường tỉnh Nam Ðịnh, tôi đã có lần bước vào một ngôi nhà trống. Hỏi vì sao nơi đây hoang vắng, thì được mách rằng không ai dám đến ở, vì cả gia đình khổ-chủ đã chết từ năm 1945 sau khi nấu một đứa con nhỏ làm món nhựa mận ăn cho đỡ đói.” (6)
Chưa hết, bên cạnh cái đói là cái rét. Chưa bao giờ miền Bắc lại rét như vậy. Ngày Tết Nguyên Ðán năm Ất Dậu (13 tháng 2, 1945) nhiệt độ được ghi nhận là 4 độ ở Hà Nội. (7) Ngay cả Văn Cao, tác giả của bài Tiến Quân Ca, nhạc phẩm sau này trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và tiếp theo là của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông cũng là tác giả của rất nhiều bài hát trữ tình nổi tiếng nhất Việt Nam đương thời và sau này, cũng đã là nạn nhân của cả hai nạn đói và rét này. Người nhạc sĩ được nhiều người kính trọng và yêu mến đã kể lại hoàn cảnh của chính ông như sau: “Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Ðêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu...” (8) với những gì ông nhìn thấy ở Hà Nội, chung quanh ông: Bên một gốc cây bóng những người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái vỏ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mặt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Ðôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh giẻ che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong số người chết dọc đường Nam Ðịnh-Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Tin từ Nam Ðịnh lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến.” (9) Chính trong hoàn cảnh bi đát này, Vũ Quí, một cán bộ Cộng Sản, vốn đã theo dõi hoạt động của Văn Cao từ lâu, đã xuất hiện, đưa Văn Cao vào một tiệm ăn và người nhạc sĩ này đã nhận thoát ly, gia nhập Việt Minh, sáng tác bài Tiến Quân Ca và tham gia Ðội Danh Dự, ám sát Ðỗ Ðức Phin... như sẽ được trình bày trong một bài sau.
Cũng trong năm 1945 này, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, ngày 8 tháng 4, đã ghi trong nhật ký của ông khi ông lên thăm Tô Hoài và Nam Cao như sau: “Dọc đường toàn những cảnh đói. Tiếng khóc như đám ma. Những bà cụ mếu máo, những trẻ trần truồng rúc đầu góc tường, hay nằm trong chiếu, những đôi bố con cũng trần truồng nằm vệ đường, những thây chết cong queo, những cái thai trong bụng mẹ, giơ tay một cách dọa nạt. Muốn chụp ảnh,” (10) rồi non một tháng sau, ngày 12 tháng 5, Nguyễn Huy Tưởng ghi thêm: Nhiều cảnh ăn thịt người. Cảm thấy như mang lỗi khi làm tiểu thuyết giữa lúc số phận đất nước đang nguy ngập chưa biết định đoạt ra sao” (11)
Vũ Ðình Hòe, một trong năm người sáng lập và chủ trương tờ Thanh Nghị đã nói ở trên cũng cho biết: “Các báo hàng ngày luôn luôn phản ảnh bức tranh vô cùng ảm đạm của cảnh chết đói đầy đường ở nông thôn các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Từng bọn người rách rưới, thân hình khô đét, đen thủi; vợ chồng con cái dắt díu đi ăn xin ở đường phố Hà Nội, hoặc lê la vào các chợ nhặt lá bánh từ các đống rác đầy ruồi nhặng. Xe bò của các hội từ thiện mỗi buổi sáng đi nhặt xác chết, sau khi đã phân phát hết những nắm cơn nhão, những bát cháo loãng chở trên xe cho những người còn lết đi được hoặc còn thoi thóp.” (12)
Ðói từ đó đã trở thành đề tài cho văn chương, thi ca và âm nhạc của Việt Nam đương thời và sau này, điển hình là nhạc sĩ Ngọc Bích với bài hát Con Ðò Ðưa Xác, Bàng Bá Lân với bài thơ Ðói...
Con số nạn nhân được hầu hết mọi người nói tới là hai triệu. Hai triệu trong số non 10 triệu người bị coi là một con số khủng khiếp vì nó tương đương với 20% dân số của miền Bắc và của hai tỉnh Thanh-Nghệ đương thời. Con số này, tuy nhiên bị nhiều người trong đó có sử gia Mỹ David G. Marr và sử gia Na Uy Stein Tonnesson cho là phóng đại bởi những nhà tuyên truyền Việt Minh. Ngay Hồ Chí Minh trong bản Tuyên Ngôn Ðộc lập của ông cũng đưa ra không những con số hai triệu mà còn “hơn” hai triệu. Thực sự người ta không biết con số nạn nhân là bao nhiêu vì thống kê chính xác và đầy đủ cho tới nay vẫn chưa tìm ra được nếu không nói là không có. Các quan lại cai trị địa phương do hoàn cảnh vô cùng nhiễu nhương, giao thông trở ngại, khó mà làm chủ được tình hình. Những con số người ta có được chỉ là vụn vặt của một số phủ, huyện, tỉnh gửi về Phủ Khâm Sai Bắc Bộ chứ không phải của toàn thể các tỉnh miền Bắc, chưa kể Thanh Hóa và Nghệ An. David G. Marr cho rằng con số đáng tin cậy hơn là một triệu, con số theo ông đã khủng khiếp lắm rồi vì nó tương đương với mười phần trăm dân số trong vùng cho một thời gian ngắn ngủi, vỏn vẹn có năm tháng. Sử gia này cũng viện dẫn những con số trích trong tài liệu dùng cho các viên chức của chính phủ Hồ Chí Minh thời đó như một triệu người ở miền Bắc và ba trăm ngàn ở miền Trung. Còn Stein Tonesson thì ước lượng thấp hơn, từ nửa triệu đến một triệu. (13) Các sử gia khác như Philippe Devillers thì con số là gần một triệu, (14) Joseph Buttinger là từ một triệu đến 2 triệu, còn dẫn theo Toàn Quyền Jean Decoux, là một triệu. (15) Sau này Fredrik Logeval, dẫn theo tài liệu của nhà cầm quyền đương thời, có lẽ là thời chính phủ Trần trọng Kim, vào tháng 5 năm 1945, (16) vào lúc nạn đói đã giảm bớt là 380,969 cho miền đồng bằng Bắc Kỳ, và sau một năm với các dữ liệu đầy đủ hơn là một triệu người cho miền Bắc và khoảng 300,000 cho miền Bắc Trung Kỳ. Trong những năm sau nữa con số leo lên tới hai triệu người cho khoảng thời gian là năm tháng của năm 1945. Trước đó sử gia Alexander B. Woodside đã đưa ra một biên độ lớn hơn là từ 400,000 đến 2 triệu cho hai năm 1944-1945. (17) Có điều con số hai triệu hay hơn hai triệu đã trở thành chính thức được công bố và được ghi trong sử sách của chính quyền Việt Minh thời đó, coi như tội ác gây ra bởi Thực Dân Pháp và Phát Xít Nhật, một mục tiêu tuyên truyền nhằm thúc đẩy quần chúng nổi lên chống lại không chỉ hai thế lực thống trị Việt Nam thời đó mà luôn cả chính quyền Bảo Ðại-Trần Trọng Kim sau này, một chính quyền bị Việt Minh tuyên truyền là bù nhìn, là Việt gian, tay sai của cả Pháp lẫn Nhật, tuyên truyền để dân chúng nổi lên giúp họ cướp chính quyền ngày 19 tháng 8 sau đó. (18) Thuật vận động của tổ chức này là “bám vào nạn đói kém, chính sách thu thóc, thu hạt dầu mà gây lòng phẫn uất của nhân dân, làm cho họ giác ngộ Nhật không giải phóng cho ta đâu, do đó đưa nhân dân ra đường tranh đấu...” (19) Tất cả là nhằm vào mục tiêu chính yếu là cướp chính quyền như họ sẽ thực hiện về sau này, kể cả sau khi Nhật Bản đã đầu hàng và chính quyền Bảo Ðại-Trần trọng Kim đã đương nhiên trở thành hoàn toàn độc lập.
Chính phủ Trần Trọng Kim và công tác cứu trợ
Cứu đói và luôn cả cứu rét do đó là hai công tác vô cùng khẩn cấp mà chính phủ Trần Trọng Kim phải làm và được mọi người trông đợi phải làm ngay từ khi mới được thành lập vì, như đã nói ở trên, nạn đói đã lên đến cực điểm vào tháng 3 năm đó đúng như tên nó được gọi: Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu và vì “Tháng Ba bà già chết rét.” Hành động đầu tiên của chính phủ này là yêu cầu người Nhật bãi bỏ sự cưỡng bách bán gạo của họ ở miền Trung và miễn bán cho những ai có dưới 3 mẫu ruộng ở miền Bắc. Lý do là vì sự cưỡng bách này đã làm cho gạo trở thành khan hiếm có tiền cũng không mua được, kể cả trường hợp của các tổ chức cứu trợ. Mặt khác, một Ủy Ban Trung Ương Tiếp Trợ Nạn Nhân Miền Bắc do Từ Cung Hoàng Thái Hậu, thân mẫu của Hoàng Ðế Bảo Ðại làm chủ tịch danh dự, Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế Hồ Tá Khanh, làm phó chủ tịch, trụ sở đặt ở số 43 đường Paul Bet, Hà Nội. (20) Tiếp theo, ngày 7 tháng 6, Khâm Sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra nghị định bãi lệ nộp thóc cho chánh quyền, đồng thời cấm tích trữ quá 2 tấn thóc hoặc 1 tấn gạo, cho hàng sáo chuyên chở và bán gạo tự do, giá thóc cũng được ấn định từ $100 đến $130 mỗi tạ, giá gạo từ $150 đến $225 mỗi tạ, so với giá gạo chợ đen ở Hà Nội hồi tháng 5 trước đó là $600 một tạ gạo xấu, $800 một tạ gạo tốt. (21) Mặt khác, ngày 14 tháng 6, Bộ Trưởng Bộ Tiếp Tế Nguyễn Hữu Thí được đặc phái vào Saigon thu xếp việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc và việc di cư một triệu dân từ Bắc bộ và Trung Bộ vô Nam. (22) Ðây không phải là một việc làm dễ dàng vì cả ba đường xe lửa, đường bộ và đường biển đều bị không quân Mỹ thường xuyên oanh tạc. Người ta đã phải dùng các hải cảng nhỏ khác thay vì Saigon và các thuyền mành của tư nhân để chuyên chở thóc gạo ra Bắc.
Việt Minh và các cuộc cướp phá các kho thóc gạo
Nỗ lực đem gạo từ Nam ra Bắc tuy nhiên đã không mang lại được những kết quả mong muốn vì nó nằm ngoài tầm tay của người Việt chưa kể sự phá hoại của chính Việt Minh mà sử gia Mỹ David G. Marr đã ghi trong tác phẩm của ông căn cứ vào tài liệu của huyện Sơn Tịnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, theo đó Việt Minh đã chặn bắt nhiều thuyền chở gạo từ Nam ra Bắc, lấy hết gạo, đem giấu đi hay chở lên núi cho du kích của họ. (23) Ðiều này phù hợp với những gì hai tác giả Trần Hữu Ðính và Lê Trung Dũng viết trong Cách Mạng Tháng Tám 1945, Những sự kiện lịch sử như sau: “Ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ như Cao Bằng, Sơn la, Thái Nguyên, Yên Bái, trong khi các lực lượng vũ trang cùng quần chúng nhân dân khởi nghĩa đánh đồn, chiếm huyện thì đều tiến hành phá các kho thóc, muối chia cho dân, hoặc tích trữ cho bộ đội, du kích.” (24)
Mục tiêu sau, mục tiêu “tích trữ cho bộ đội du kích” hầu như ít khi được các tác giả viết về hiện tượng Việt Minh xúi dân phá các kho thóc, gạo nhắc đến mặc dầu ai cũng biết nhu cầu tích trữ thóc gạo để dùng trong các chiến khu của Việt Minh để nuôi cán bộ và du kích ngay từ những ngày đầu là một mục tiêu tối cần thiết bên cạnh các mục tiêu kinh tài khác mà Nguyễn Lương Bằng, từ năm 1943, được Trường Chinh trao cho trách nhiệm kinh tài. Sư kiện này đã được người sau này sẽ là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kể lại và được tác giả Thép Mới ghi như sau: “Tôi từ làng Thượng Cát chỉ huy các mối buôn, thôi thì buôn đủ thứ, buôn gạo, buôn khô dầu, buôn dầu ve, dầu trẩu, buôn bè, buôn mật Mai Lĩnh bán vào Hà Nội, buôn gỗ trai làm lược bán về dưới chợ Bằng.” (25) Nên để ý là Việt Minh ở các chiến khu hồi này rất cần tiền để duy trì và phát triển các sinh hoạt của họ vì, cũng theo Nguyễn Lương Bằng qua hồi ký kể trên, vào khoảng cuối năm 1943, đầu năm 1944, khi được Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phân công “phụ trách dân vận một bộ phận an toàn khu, phụ trách binh vận và phục trách về tài chính,” ông có hỏi “quỹ của Ðảng ta còn bao nhiêu tiền” thì được Trường Chinh trả lời “Tất cả còn hai mươi bốn đồng.” (26)
Câu hỏi được đặt ra ở đây là những hoạt động kinh tài này có ảnh hưởng gì tới sự gia tăng của giá bán và nạn khan hiếm lúa gạo hay không và lượng gạo do những tổ chức của Nguyễn Lương Bằng bán ra có phải là gạo cướp từ các kho chứa của nhà nước đương thời hay không? Câu trả lời phần nhiều là có. Tác giả Vũ Ngự Chiêu cũng nhắc tới sự cản trở của Việt Minh khi ông nói về việc họ cung cấp tin tình báo cho các oanh tạc cơ Mỹ vào lúc lực lượng này gia tăng hoạt động nhắm vào các đường giao thông khiến cho chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp để chuyển tin tức. Sử gia này cũng nhắc tới sự kiện Bộ Trưởng Xã Hội Vũ Ngọc Anh bị máy bay Mỹ bắn chết ngày 23 tháng 7 và việc Việt Minh xúi giục nông dân phá các kho thóc ở các địa phương. (27) Sự thực thì hành động xúi bẩy dân chúng phá các kho thóc ở các địa phương này nằm trong chủ trương của Việt Minh. Bằng chứng là trong Lời Kêu Gọi của Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Chống Nạn Cứu Ðói với nguyên văn “...ai là người đương đói khổ, phải rủ nhau kéo đến phủ huyện, tỉnh trưởng, đốc lý đòi phát gạo; chẹn các xe lương và phá những kho thóc của giặc Nhật mà ăn...” hay “Ðói! Ðói! Phải giữ lấy thóc gạo. Phải phá những kho thóc gạo của giặc” hay “Ðói! Ðói! Phải đánh đuổi Nhật Pháp mới khỏi đói.” (28) Hiện tượng phá các kho thóc gạo từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1945 do Việt Minh xúi bẩy và được Mặt Trận ghi nhận như những thành tích lớn lao của họ đã xảy ra ở rất nhiều nơi và được đăng trên các báo Cứu Quốc và Cờ Giải Phóng. Một vài trường hợp điển hình người ta có thể kể là ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Ðề Thám (tức Bắc Giang) ngày 13 tháng 3, phủ Thuận Thành, tỉnh Ngô Gia Tự (tức Bắc Ninh) ngày 15 tháng 3, tỉnh Tán Thuật (tức Hưng Yên) liên tiếp các ngày 9, 10, 12, 14 tháng 5 và 8 tháng 6, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 16 tháng 5, tỉnh Nguyễn Thái Học (tức Vĩnh Yên) ngày 13 tháng 6... (29) Ðiều không kém đáng chú ý là qua những hình ảnh trong các phim tuyên truyền sau này được phổ biến, những người cướp phá các kho thóc gạo có thân hình mập mạp, khỏe mạnh thay vì ốm đói như đương thời được chụp hay tả lại.
Hành động thúc đẩy dân chúng hay tự mình phá kho thóc, kèm theo với sự xúi bẩy dân chúng không nộp thuế, đòi phát gạo... này đã được Việt Minh “kết hợp với phong trào đấu tranh vũ trang trong toàn quốc.” Thay vì gây khó khăn cho người Nhật hay người Pháp, họ đã gây ra rất nhiều khó khăn và nguy hiểm cho các nhà cầm quyền địa phương đương thời, đặc biệt là các tổng lý và các tri phủ, tri huyện là những người trực tiếp lo việc coi giữ các kho thóc gạo trong địa phương của họ, từ đó cho chính phủ Trần trọng Kim. Lý do là vì các kho thóc gạo ở các địa phương không phải là chỉ là của người Nhật mà còn là kho dự trữ để điều hòa giá cả trên thị trường trong tổ chức chính quyền của các vua nhà Nguyễn. Nhiều người đã bị bao vây, đánh đập hay bị giết vì đằng sau những người dân thuần túy là những đội danh dự, những cán bộ và những du kích võ trang Việt Minh. Mặt khác, khi xúi người dân đi cướp các kho thóc này, Việt Minh đã biến những người dân thật thà, vô tội này thành những kẻ phạm tội và bị truy tố. Không còn cách nào để trốn tránh pháp luật, những con người khốn khổ và ngây thơ này đã phải bỏ lên chiến khu cùng với những gì họ cướp được. Trường hợp của “chú Thấu” trong hồi ký của nhà văn Vũ Thụy Hoàng là một trường hợp điển hình. (30)
Cuối cùng thì bằng cách cướp phá các kho thóc gạo, ngoài mục tiêu tâm lý, Việt Minh còn vừa được gạo, vừa được người. Cũng cần phải để ý là các tỉnh có các kho thóc bị cướp kể trên không phải là những tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ như Nam Ðịnh, Thái Bình, Hà Ðông..., nơi nạn đói hoành hành mà là các tỉnh ở miền Trung du không xa các cứ địa của Việt Minh là mấy. Người dân ở các tỉnh đồng bằng này, vì bị đói nhiều ngày, lê không nổi, nằm chết dọc đường khi kéo nhau lên các tỉnh hay phủ huyện lỵ ở miền xuôi chưa nổi, sức đâu mà kéo lên các tỉnh ở tít trên các miền Trung du này để cướp phá các kho thóc như được kể. Họ cũng không thể lên đó để lãnh thóc hay gạo hay cơm, cháo từ tay các cán bộ. Việt Minh cũng khó có thể đem thóc hay gạo xuống các tỉnh miền xuôi để phát cho họ. Trường Chinh sau này khi viết về hiện tượng cướp các kho thóc gạo cũng đã đưa ra những con số và hình ảnh mà người đọc không thể không nghĩ là ông đã phóng đại: “Hàng nghìn kho thóc của Nhật ở Bắc-bộ và Bắc Trung-bộ bị quần chúng chiếm chia cho dân nghèo. Nạn đói được giải quyết bằng phương pháp cách mạng. Nông dân Bắc-giang, Thái-nguyên, Bắc-cạn, v.v... nổi dậy chiếm đồn điền của Pháp, Nhật và tiến hành chia đất.” (31) Câu hỏi được đặt ra là những thóc gạo cướp được đã được chở đi đâu nếu không phải là lên chiến khu như trường hợp xảy ra ở Quảng Ngãi cho thóc gạo chở từ Nam ra Bắc để cứu đói hồi còn chiến tranh và luôn cả sau này, sau biến cố 19 tháng 8.
Cuối cùng cướp phá các kho thóc gạo cũng là một cái cớ được Việt Minh triệt để nhắm vào để lên án sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim nhằm sách động quần chúng nông thôn nổi lên cướp chính quyền khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và cơ hội đến với họ. Sự thực thì nạn đói đã không kéo dài. Ngay từ tháng 5 nhờ vụ lúa chiêm được mùa và với nhu cầu lương thực không còn nhiều như trước do con số người chết quá cao, nạn đói giảm dần để sang đến tháng 6 thì gần như không còn nữa. (32) Tất cả đã xảy ra trước khi Việt Minh cướp chính quyền hay nói cách khác, Việt Minh không những không đóng góp được gì tính cực vào nỗ lực cứu đói trong thời gian này mà còn cản trở những hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim cũng như của các nhà cai trị địa phương thời đó.
Thay cho lời kết
Ngày Tết là ngày gia đình sum họp. Sum họp không phải chỉ trong gia đình nhỏ gồm có vợ chồng con cái mà là sum họp cả đại gia đình nội ngoại và luôn cả tổ tiên, cả người còn sống lẫn người đã chết. Bữa cơm cúng chiều ba mươi Tết là để mời các cụ về và ngày mùng bốn hóa vàng là để tiễn các cụ đi. Cho tới nay, vì thiếu những thống kê chính xác, ta không biết chính xác con số các nạn nhân của Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 là bao nhiêu. Một triệu, hai triệu, hơn nữa hay ít hơn. Tất cả đều có thể. Cũng vậy, với các con số nạn nhân của những biến cố bi thảm sau đó như cuộc thanh toán các đảng phái quốc gia sau ngày Việt Minh cướp chính quyền 19 tháng 8, cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, hai cuộc chiến tranh “Chống Pháp,” “Chống Mỹ,” Phong Trào Vượt Biên, Vượt Biển sau năm 1975... Ba triệu, bốn triệu, năm triệu hay hơn nữa. Tất cả cũng đều có thể. Nhưng có một điều đúng nếu không nói là rất đúng là không một gia đình Việt Nam nào, nhất là ở Miền Bắc, là không mất mát. Ðau thương tràn ngập mọi nhà, chết chóc đầy ngập các hang cùng ngõ hẻm, từ rừng sâu, núi thẳm đến biển cả, đại dương.
Câu hỏi được đặt ra là hồn oan của những nạn nhân kể trên, khởi đầu là hai triệu nạn nhân, nói theo Hồ Chí Minh, của Nạn Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945, sau 70 năm đã được giải thoát hay chưa? Ðã có ai hàng năm lập đàn tràng để giải oan cho họ chưa? Nếu chưa, xin quý vị hãy vui lòng dành một phút sau khi đọc bài này để suy ngẫm và tưởng nhớ tới họ coi như một cách giải oan cho họ cũng như giải oan cho hàng triệu người khác đã bị lợi dụng và bị hy sinh sau đó. Cầu mong lịch sử sẽ không còn tái diễn dù dưới hình thức nào đi chăng nữa!
Ðể kết thúc bài này, người viết xin gửi tới quý độc giả những câu đầu và câu cuối của bài Con Ðò Ðưa Xác của hai tác giả Ngọc Bích và Nguyễn Văn Ðức sau đây mà quý độc giả có thể mở nghe dễ dàng trên các trang mạng, để thấy những cảm giác thê thảm đến độ ghê rợn của người đương thời:
Gió thổi thì thầm, mưa bay lâm râm.
Ai chở con đò bên dòng sông vắng?
Ai khóc tỉ tê trên dòng trường giang?
Ðò sang ngang, dưới ánh trăng vàng.
Gió thu hiu hắt nức lên từng cơn.
Nặng nề một chiếc thuyền con,
Âm thầm chở mấy vong hồn qua sông. 
Trăng lên, mây tan!
Sao trăng đẹp thế này!
Mà trên sông vắng,
Con đò cay đắng đưa xác người về đâu?
Ô hô! Ô hô! Con ới mười mấy tuổi đầu,
Vì chưng đói rét ngậm sầu thác oan!
.....
Trôi về đâu? Con đò xác!
Lấp vào đâu? Nỗi niềm thương!
Mang mang trong mây tan!
Phiêu linh có một bóng ông già
Tay chèo tay lái,
Lòng buồn tê tái,
Lòng buồn tê tái đem chôn đàn con! 
Trôi về đâu? Con đò xác!
Lấp về đâu? Nỗi niềm thương!
Chuyện Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, lợi dụng nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu, xúi giục các nông dân vô tội nổi loạn cướp phá các kho thóc gạo rồi sau đó theo đảng này cướp chính quyền với những hứa hẹn chia ruộng đất và không còn phải đóng thuế nữa là một điều dễ hiểu. Ðiều đáng tiếc là người chết không còn sống lại để thấy hiện trạng của đất nước Việt Nam 70 năm sau đó như thế nào.
Phạm Cao Dương
(Tuần lễ tiễn Ông Táo lên chầu Trời, Tết Ất Mùi 2015)
Chú thích:
(1) Henry, Yves and de Visme, Documents de démographie et riziculture en Indochine. Hanoi: Publication du Bulletin Économique de l1Indochine, 1928, tr. 332 và kế tiếp. Xem thêm cùng tác giả, Économie agricole de l1In dochine. Hanoi: IDEO, 1932; Nguyễn Thế Anh, Into the Maelstrom: Vietnam During the Fateful 1940s. Westminster, CA: Viện Việt Học, 2005, tr. 45, và Phạm Cao Dương, Vietnamese Peasants under French Domination, 1961-1945, Monograph Series No. 24. Lanham, MD: University Press of America, 1985, 125 và Thực Trạng Của Giới Nông Dân Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc. Saigon: Nhà Sách Khai Trí, 1967, tr.185-186. 
(2) Lãng Nhân, “Lời Người Bán Cám,” trong Ðông Dương Tạp Chí, No. 27, Samedi 13 Novembre 1937, Mục “Chuyện Vô Lý,” tr. 10; Phạm Cao Dương, Thực Trạng của Giới Nông Dân..., tr. 186-187. 
(3) Nguyễn Thế Anh, như trên, tr. 45.
(4) Như trên, tr. 46.
(5) Ðoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên Saigon: Nam Chi Tùng Thư? Ðại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 28 
(6) - như trên, tr. 29.
(7) Ðoàn Thêm,1945-1954, Việc Từng Ngày, Hai mươi Năm Qua. Saigon,?, Los Alamitos, California: Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 3.
(8) Văn Cao, “Tôi Viết Tiến Quân Ca,” trong Một Chặng Ðường Văn Hóa, Tập Hồi Ức Và Tư Liệu Về Ðề Cương Văn Hóa Của Ðảng Và Ðời Sống Tư Tưởng Văn Nghệ, 1943-1948. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tác Phẩm Mới, 1985, tr. 109.
(9) Văn Cao, “Tôi Viết Tiến Quân Ca,” tr.110-111.
(10) Nguyễn Huy Tưởng. “Nhật Ký Nguyễn Huy Tưởng,” trong Một Chặng Ðường Văn Hóa..., như trên, tr. 125.
(11) Như trên, tr. 129.
(12) Vũ đình Hòe, “Những Ngày Tháng 8 ở Hà Nội,” trong Nguyễn Văn Khoan (Chủ Biên). Tổng Khởi Nghĩa Tháng 8-1945 Tại Hà Nội, Việt Minh Hoàng Diệu. Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 255.
(13) Marr, David G, Vienam 1945..., đã dẫn, tr. 104; Tonnesson, Stein. The Vietnamese Revolution of 1945..., đã dẫn, tr. 293.
(14) Devillers, Philippe, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952. Paris: Editions du Seuil, 1952, tr. 131
(15) Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled. Vol. 1, New York: Praeger, 1967, tr. 240.
(16) Logevall, Fredrik, Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America's Vietnam. New York: Random House, 2012, tr 81.
(17) Woodside, Alexander B. Community and Revolution in Modern Vietnam. Boston: Houghton Mifflin, 1976, tr. 159.
(18) Marr, đã dẫn, tr. 104.
(19) Nguyễn Văn Khoan, Tổng Khởi Nghĩa Tháng 6-1945..., đã dẫn, tr. 37.
(20) Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975 (Tập A: 1939-1946, tr. 221.
(21) Ðoàn Thêm, 1945-1954, Việc Từng Ngày... đã dẫn, tr. 6 - 7.
(22) Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, đã dẫn, tr. 277. Marr, Vietnam 1945..., đã dẫn, tr. 102. Nguyễn Thế Anh, Into the Maelstrom, đã dẫn, tr. 49.
(23) Marr, Vietnam 1945..., đã dẫn, tr. 102-103.
(24) Trần Hữu Ðính và Lê Trung Dũng, Cách Mạng Tháng Tám 1945, Những Sự Kiện Lịch Sử. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Sử Học, 2000, tr. 206.
(25) Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Hồi Ký Cách Mạng. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, 1995, tr. 125. 
(26) - như trên, tr. 123.
(27) Vũ Ngự Chiêu, “The Other Side of the Vietnamese Revolution,” đã dẫn, tr. 308.
(28) Trần Huy Liệu và Văn Tạo, Cao Trào Ðấu Tranh Tiền Khởi Nghĩa,” Tài Liệu Tham Khảo Lịch Sử Cách Mạng Cận Ðại Việt Nam, Tập XI. Hà Nội:Nhà Xuất Bản Văn Sử Ðịa, 1957, trang 97 và kế tiếp 
(29) - như trên, tr. 103 và kế tiếp.
(30) Vũ Thụy Hoàng, “Ðêm Hà Nội Nổ Súng, Chiến Tranh Việt Pháp bùng nổ 50 năm trước,” Hồi Ký, trong Thế Kỷ 21, Năm Thứ Tám, số 92, December 1996, tr. 35.
(31) Trường Chinh, Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân Việt-Nam, Tác Phẩm Chọn Lọc, Tập I. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1975, tr. 346. 
(32) Vũ Ngự Chiêu, “The Other Side of the Vietnamese Revolution,” đã dẫn, tr. 308.






Đài Phật giáo Việt Nam phỏng vấn Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ về nội dung cuộc gặp gỡ và trao đổi với Bà Rena Bitter, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ 


Sau khi được tin bà Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ đến Thanh Minh Thiền Viện hôm thứ ba 17-3-2015 vấn an Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ và trao đổi về hiện tình Phật giáo và Việt Nam. Đài Á Châu Tự Do đã có cuộc phỏng vấn Đức Tăng Thống và phát sóng về Việt Nam trong chương trình hôm thứ năm 19-3. Theo thông lệ, Đài hạn định thời lượng tất cả các cuộc phỏng vấn là 7, 8 phút. Do nhu cầu Phật sự, Đài Phật giáo Việt Nam cần hỏi thêm một số chi tiết, nên có cuộc phỏng vấn Đức Tăng Thống dài 12 phút dưới đây, và phát về Việt Nam trong chương trình hôm thứ sáu 27-3. Xin mời bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn dưới đây, hoặc có thể vào nghe tại : http://pttpgqt.net/2015/03/31/dpgvn-phong-van-dtt-thich-quang-do-ve-noi-dung-cuoc-gap-go-rena-ritter(download: http://kiwi6.com/file/hry8cdzk8h ) 


Ỷ Lan : Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, theo tin của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, thì Bà Rena Bitter, Tổng lãnh sự Hoa Kỳ đã có cuộc viếng thăm Đức Tăng Thống. Xin Đức Tăng Thống hoan hỉ cho thính giả biết rõ việc này ? 


Đức Tăng Thống : Đúng như vậy. Bà Tổng lãnh sự Hoa Kỳ Rena Bitter cùng với phái đoàn 3 người đến Thanh Minh Thiền Viện thăm tôi vào lúc 2 giờ chiều ngày thứ ba vừa qua. Cuộc thăm viếng và trao đổi kéo dài trong vòng một giờ rưởi đồng hồ. Theo bà Tổng Lãnh sự thì năm nay kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Mỹ, nên mới có chuyến viếng thăm để biết quan điểm tôi đối với hiện tình Việt Nam trong vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo.

 

Ỷ Lan : Đức Tăng Thống đánh giá cuộc gặp gỡ như thế nào, và sự quan tâm của Phái đoàn Hoa Kỳ ra sao ?


 ĐTT : Cuộc gặp gỡ rất thân ái, có nhiều thông cảm. Bà Tổng Lãnh sự xác nhận với tôi chính sách của Hoa Kỳ đặt nặng trên vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo, là những giá trị bất biến. Cho nên trong tất cả mọi mối bang giao, nhân quyền và tự do tôn giáo luôn là khởi điểm cho các cuộc hội đàm. Bà cho biết, không có cuộc gặp gỡ nào với chính quyền Việt Nam mà Hoa Kỳ không đề cập đến nhân quyền và tự do tôn giáo. Đặc biệt, trong năm kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Mỹ, sẽ có nhiều cuộc gặp gỡ, chúng tôi cũng sẽ bảo vệ nguyên tắc nhân quyền và tự do tôn giáo là sự quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ trong mọi cuộc thương thảo.

 

Ỷ Lan : Bà đã hỏi vấn đề gì và Đức Tăng Thống trình bày như thế nào ?
 


ĐTT : Sau cuộc gặp gỡ, tôi đã trao tặng bà Rena Bitter một trang viết nhận xét của tôi, và 2 tài liệu (bằng tiếng Anh) về những khó khăn, khủng bố, đàn áp mà nhà cầm quyền Cộng sản dành cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất suốt 40 năm qua, mà tôi chỉ thị cho Tổng vụ Truyền thông Viện Hoá Đạo và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuẩn bị và trình bày các chứng liệu để bà Tổng Lãnh sự có đầy đủ hồ sơ.
 


Trong cuộc trao đổi tôi giải thích để bà Tổng Lãnh sự hiểu rõ tình hình Phật giáo Việt Nam.Dù rằng nhìn chung, xã hội Việt Nam có những bước đi lên, nhưng sự cách biệt giầu nghèo quá lớn, các đảng viên Cộng sản bây giờ không còn là vô sản, mà là những nhà tư bản đỏ, tham ô và hối mại quyền thế. Họ cậy thế Đảng Cộng sản để kinh doanh, làm ăn bất chính, trở thành các đại gia. Ngược lại, đại đa số đồng bào lâm tình trạng nghèo khó, bị cướp đất, cướp nhà, rất khốn khổ, mà người ta thấy qua phong trào Dân Oan… Chiêu bài kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là sự bám víu để nối dài thể chế độc tài toàn trị, nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho Đảng. Chính nhóm đặc quyền đặc lợi này đang bán nước, bán tài nguyên của dân tộc cho ngoại bang. 


Kể từ năm 1975, Cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, chủ trương Đảng muốn tất cả mọi tôn giáo trở thành công cụ của Đảng, nên áp dụng chính sách chia để trị, ai theo tôn giáo do Đảng thành lập thì được sống, ai không theo thì bị khủng bố. Thiên chúa giáo nhờ có Tòa Thánh Vatican can thiệp, còn Giáo Hội Thống Nhất chúng tôi cũng như các tôn giáo khác như Cao đài, Hòa hảo, Tin lành không theo Đảng đều bị xem là phản động. Đảng tổ chức ra “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” năm 1981 để làm thừa sai cho Đảng. Thực tế, danh xưng “Giáo hội” Đảng đặt ra để đánh lừa Quốc Tế, thực chất chỉ là một Hiệp hội nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, do Ban Tôn Giáo Chính Phủ lãnh đạo. 


Cũng kể từ đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất của chúng tôi, một Giáo Hội dân lập, lịch sử và duy nhất tại Việt Nam bị tước đoạt quyền pháp lý, bị đàn áp, khủng bố suốt 40 năm nay. Mục tiêu đàn áp ngày càng tinh vi, nhằm đẩy chúng tôi đi vào chỗ tự diệt. Sự đàn áp cụ thể trải qua 3 giai đoạn : Giai đoạn một, đánh vào thượng tầng Giáo Hội bằng cách giết chết, giam tù, lưu đày các cấp lãnh đạo để Giáo Hội lâm tình trạng như rắn mất đầu. Nhưng họ đã thất bại, nên tiến qua giai đoạn hai, là dùng Sư đánh Sư, dùng Phật tử đánh Phật tử, mà sự ra đời của “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” là minh chứng cụ thể. Bây giờ, Cộng sản sử dụng cái đói cái nghèo làm cho dân sợ mà phải nghe theo : ai theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thì chồng không có việc làm, vợ không được buôn bán, con không được đến trường học hành. Tuy nhà cầm quyền thực hiện ngấm ngầm chính sách này, nhưng hậu quả thì rất khốc liệt cho Giáo hội chúng tôi. Vì sinh kế và miếng cơm manh áo mà người Phật tử buộc phải rời khỏi Giáo hội. Cho nên duy trì được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cho đến ngày hôm nay là vô cùng vất vả.


 Hơn nữa, suốt Hai Nghìn năm lịch sử, Phật giáo luôn đồng hành cùng Dân Tộc, nên Giáo hội chúng tôi luôn đứng chung với toàn dân trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên quốc gia trước nạn bành trướng xâm lăng của Trung Cộng. Do đó, mà Giáo hội chúng tôi bị nhà cầm quyền lên án là phản động, là chống Đảng. Ai hậu thuẫn Giáo hội đều bị khủng bố đàn áp. Trong hoàn cảnh bị thúc ép như thế, chúng tôi phải cho thành lập Văn phòng II Viện Hoá Đạo đặt trụ sở ở Hoa Kỳ, phòng khi Gíao hội trong nước bị đàn áp tê liệt, thì Văn Phòng II Viện Hoá Đạo có nhiệm vụ duy trì Giáo hội tại hải ngoại để chờ ngày đất nước quang phục. 


Ỷ Lan : Trước bao khó khăn như thế, lập trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ngày nay như thế nào, bạch ĐứcTăng Thống ?


 ĐTT : Tôi đã khẳng định với bà Tổng Lãnh sự, là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất là Giáo Hội có tiếng nói đối lập duy nhất tại Việt Nam để đòi hỏi nhân quyền, tự do dân chủ cho 90 triệu người dân Việt Nam và chúng tôi sẽ tranh đấu đến cùng dù phải trả với bất cứ giá nào. Lập trường của Giáo hội, là không chấp nhận chế độ độc tài toàn trị của Cộng sản. Tôi cũng xác định dân tộc Việt Nam cần được hưởng một thể chế dân chủ đa nguyên.


 Tôi cũng nói rõ với bà Rena Bitter vai trò của Hoa Kỳ quan trọng nhất trong việc chuyển hoá chế độ Cộng sản độc tài thành một chính thể dân chủ tự do. Vì vậy tôi yêu cầu bà Tổng Lãnh Sự quan tâm cho sự kiện, nếu nhà cầm quyền Hà Nội muốn được hưởng sự ưu đãi của Hoa Kỳ, thì họ phải chịu đánh đổi bằng sự tôn trọng nhân quyền và tự do dân chủ. Dân tộc chúng tôi muốn được hưởng nền tự do dân chủ như các nước văn minh trên thế giới. Đặc biệt, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cần có tự do dân chủ thì mới có thể phát triển, hành đạo và tồn tại để đóng góp tái thiết quốc gia. Không có tự do dân chủ đa nguyên, thì cái Giáo Hội Phật giáo nhà nước kia sẽ thực hiện âm mưu Đảng làm biến tướng Phật Giáo. Khi những nhà sư không còn giữ giới luật Phật chế, mà lại còn được học tập chủ nghĩa Mác – Lênin thì giáo lý từ bi, khoan dung và cứu khổ chúng sinh còn lại gì ?!

 

Tôi cũng lưu ý bà Tổng Lãnh sự về hiện trạng các thế hệ thanh thiếu nhi Việt nam đang bị chính sách giáo dục nhồi sọ theo kiểu “xã hội chủ nghĩa” chủ trương hận thù, lưu manh, vô cảm, sa đọa. Nếu không sớm thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam, thì tương lại Việt Nam sẽ rơi vào vực thẳm, khó có thể phục hồi nhân phẩm. Trong trang nhận xét viết gửi bà Tổng Lãnh sự, tôi đặc biệt cám ơn Hoa Kỳ thông qua Ngoại trưởng Madeleine Allbright, vị Ngoại trưởng đầu tiên đến Việt Nam. Nhờ lời Ngoại trưởng kêu gọi trả tự do cho tôi tại Hà Nội mà tôi mới được ân xá năm 1998. Ngoại trưởng Madeleine Allbright là người am hiểu tình hình Việt Nam khi bà phê phán Hoa Kỳ đã sai lầm tại Việt Nam do xem nhẹ vai trò tôn giáo. Bà cho rằng : Ngay lúc khởi đầu mục tiêu chống Cộng đã bị suy yếu vì chính quyền Saigon đàn áp Phật giáo, mà Phật giáo là cơ sở không cộng sản lớn nhất tại Việt Nam, vì vậy chúng ta không thu phục được trái tim và lòng người dân Việt.



 Ỷ Lan : Bà Tổng Lãnh Sự đã phản ứng ra sao về sự trình bày của Đức Tăng Thống ? Và bà có hỏi hay nói gì thêm ?


 

ĐTT : Bà nói rất mừng được gặp tôi và mong trong tương lai còn dịp gặp lại để nghe thêm ý kiến giúp cho việc nghiên cứu giải quyết vấn nạn Việt Nam. Bà cũng hỏi tôi có thông điệp gì hay lời nhắn gì có thể áp dụng trong các cuộc tiếp xúc với Việt Nam.


 Tôi đáp bằng một chủ trương đã từng nói với Tổng Bí thư Đỗ Mười, là Việt Nam nên xây dựng một thể chế dân chủ đa nguyên, đơn giản chỉ cần ba đảng : một đảng trung lập, một đảng khuynh tả và một đảng khuynh hữu. Như thế Cộng sản vẫn tồn tại trong cộng đồng dân tộc, họ có mất đâu. Nhưng họ không dám làm vì họ sợ mất quyền độc tài toàn trị, mà tôi nói hơi thô bạo một chút, là họ sợ buông cái quyền độc tài toàn trị ra là họ mất đầu liền, vì toàn dân đều ngấm ngầm biết rõ tội ác của họ 54 năm qua. 


Wednesday, March 25, 2015

Tù nhân lương tâm trại tù Xuyên Mộc tuyệt thựcPhần âm thanh Tải xuống âm thanhnguyenkha-phuonguyen-620.jpgSinh viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên tại phiên xử sáng ngày 16/05/2013 ở Tòa án Nhân dân tỉnh Long An.AFP
Các tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha cùng Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng ở trại tù Xuyên Mộc bắt đầu đợt tuyệt thực phản đối việc người tù chung với họ là Trần Vũ Anh Bình bị còng tay đưa đi, không có tin tức gì kể từ hôm 19/3/2015.
Vào ngày 24/3/2015, bà Nguyễn Thị Kim Liên, mẹ tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha cho đài Á Châu Tự Do biết lần đi thăm nuôi đầu tiên sau dịp Tết Nguyên Đán Ất Mùi bị các cán bộ trại giam Xuyên Mộc đặt hàng rào chắn ngang trên đường đến nhà tù cùng với bốt kiểm tra giấy tờ nhân thân.
Trong lần thăm gặp mới nhất, bà Liên và Đinh Nhật Uy được Đinh Nguyên Kha cho biết kết quả đợt tuyệt thực 10 ngày của 4 tù nhân lương tâm hồi tháng 1 phản đối sự cai quản hà khắc như nhốt biệt giam và không cho nhận sách, báo, từ điển tiếng Anh gửi vào trong tù. Bà Liên nói lại những gì nghe được từ Đinh Nguyên Kha:
“Cai tù nói: ‘Không giải quyết kiến nghị nào hết. Kiến nghị sai pháp luật’. Thành ra Kha làm đơn khiếu nại thưa trại giam tới ra Tổng cục 8 và Viện Kiểm sát của Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Viện Kiểm sát Bà Rịa-Vũng Tàu có vô trại giam làm việc, mời Kha làm việc chung với cai tù. Nhưng anh em tù nhân nói với Kha phải có 1 tù nhân lên làm chứng trong buổi  làm việc nữa thì mới đồng ý và Viện Kiểm sát không chịu”.
Đinh Nguyên Kha còn cho biết anh cùng với 3 tù nhân lương tâm khác là Trần Vũ Anh Bình, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bắt đầu đợt tuyệt thực mới từ hôm 19/3 này.
8 tù nhân lương tâm vẫn bị biệt giam trong phạm vi 12 mét vuông và  4 tù nhân lương tâm vừa nêu quyết định tuyệt thực để phản đối các kiến nghị trước đây của họ không được giải quyết.
Vào ngày 19/3, cán bộ trại giam vào lục xét phòng, tù nhân lương tâm Trần Vũ Anh Bình bị cai tù giật đứt chuổi tràng hạt của người Công giáo.
Anh Trần Vũ Anh Bình lên tiếng chống đối gay gắt việc cán bộ trại giam không ghi trong biên bản về chiếc chuổi tràng hạt bị giật đứt của anh nên bị còng tay dẫn đi cho đến ngày 22/3 vẫn chưa có tin tức gì.
Do Đinh Nguyên Kha báo với gia đình thông tin này mà cán bộ trại giam cắt ngắn cuộc thăm gặp còn 40 phút thay vì 1 giờ đồng hồ. Cán bộ trại giam, Đại úy Phạm Văn Huyên nhắc nhở 2 lần, bà Liên kể:
“Họ nói là ‘Một lần nữa tôi cảnh cáo anh nếu anh nói chuyện vấn đề những người khác thì tôi sẽ cắt cuộc thăm gặp này và giải anh vô trong liền’”.
Cán bộ trại giam cũng nói với bà Liên rằng trại giam không bỏ đói tù nhân. Đinh Nguyên Kha lập tức lên tiếng phản bác lại. Bà Liên kể tiếp lời Đinh Nguyên Kha nói với cán bộ trại giam ngay trong buổi thăm gặp:

Phản đối chế độ giam cầm hà khắc

 Trong thể trạng ốm yếu, gầy lại thêm bị kiệt sức lâu ngày thì với mức độ của Diệu chỉ cần tuyệt thực thêm 3 đến 5 ngày thì sức khỏe có thể rơi vào tình trạng có thể gọi là nguy hiểm.
Cựu tù nhân Trương Minh Tam

“Những vấn đề gì tôi yêu cầu làm đơn kiến nghị mà các anh không giải quyết, không trả lời đơn thư luôn. Đã vậy rồi hôm 19/3 các anh còng tay Trần Vũ Anh Bình đưa đi mất tích luôn mà không cho đem theo một món đồ cá nhân nào hết nên chúng tôi tuyệt thực luôn từ ngày đó”.
Anh Đặng Xuân Diệu trước tòa.
Anh Đặng Xuân Diệu trước tòa.
Đinh Nguyên Kha còn cho biết thêm thông tin của bản thân là có 3 nhân viên An ninh Điều tra thuộc Phòng PA92 từ Long An đến trại giam Xuyên Mộc tra hỏi bức hình anh mặc áo tù, tay cầm tờ giấy ghi “Phản đối biệt giam. Tôi Đinh Nguyên Kha tuyên bố tuyệt thực” đăng tải trên Facebook của mẹ anh là do ai chụp; và thông tin liên liên quan đến sức khỏe của 2 bạn tù cùng tuyệt thực là Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng rất yếu.
Cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam, người từng bị giam chung với Đặng Xuân Diệu ở trại 5, Thanh Hóa, thường xuyên đi thăm anh Diệu ở trại Xuyên Mộc chia sẻ với đài RFA về tình hình sức khỏe của anh Diệu:
“Bằng cảm nhận của mình, mình nghĩ Diệu khá yếu. Bởi vì sau cuộc tra tấn hành hạ dài của trại 5 và các đợt tuyệt thực của Diệu dài nhất mà mình được chứng kiến lên tới 7 tháng thì sức khỏe một người sẽ bị suy kiệt rất ghê gớm. Xuống đến trại Xuyên Mộc tình trạng tuyệt thực dài ngày như thế không còn nữa, chỉ kéo dài 4-5 ngày, thậm chí kéo dài đến 10 ngày thì họ phải đáp ứng các yêu cầu chính đáng của anh em. Bằng cảm nhận của Tam từng biết về sức khỏe của Diệu thì mình nghĩ là trong thể trạng ốm yếu, gầy lại thêm bị kiệt sức lâu ngày thì với mức độ của Diệu chỉ cần tuyệt thực thêm 3 đến 5 ngày thì sức khỏe có thể rơi vào tình trạng có thể gọi là nguy hiểm.
Buổi thăm gặp ngắn ngủi của gia đình tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha kết thúc với lời khẳng định của anh Kha rằng 3 người họ sẽ tiếp tục tuyệt thực cho đến khi biết được tin tức của người bạn tù Trần Vũ Anh Bình ra sao.

Cảnh báo tình trạng sức khỏe Đặng Xuân Diệu

Tuesday, March 24, 2015

TRƯNG NỮ VƯƠNG


                  TRƯNG NỮ VƯƠNG                           
PHỤC QUỐC HÙNG LẠC (39-43)

     Từ trước tới nay, sách sử cũ cứ dựa vào Hán sử với luận điệu "Thiên triều" biện minh cho sự đô hộ viết rằng Tô Định là tên thái thú tham lam tàn bạo nên Hai Bà Trưng mới đứng lên chống lại. Đây chính là luận điểm của Hán tộc cho rằng dân Việt vẫn chịu thuộc Hán nhưng chỉ vì thái thú tham lam tàn bạo nên người Việt mới đứng lên chống lại sự đô hộ mà thôi. Vì vậy, sử sách Hán hết lời ca tụng các viên Thái thú như Tích Quang, Nhâm Diên và Giả Tôn. Hán sử cũng chép là sau khi Hán Vũ Đế xâm chiến Nam Việt năm 111 TDL, Hán triều đã chia thành 9 quận, thế nhưng việc đặt quận huyện chỉ là trên hình thức. Chính sách sử Trung Quốc là Hậu Hán thư chép rằng: “Lúc trước các quan châu mục tự cai quản mãi đến năm 29 mới sai sứ sang cống triều Hán”. Hán sử chép năm 29, Hán triều cử Nhâm Diên sang làm Thái Thú Cửu Chân đến năm 32, Hán triều đã phải bãi chức Thái Thú Cửu Chân của Nhâm Diên. Hai năm sau lại triệu hồi Thái Thú Giao Chỉ là Tích Quang về rồi năm 34 mới cử Tô Định là viên võ quan làm Thái Thú để đem quân đi đánh chiếm lại những vùng đã thuộc quyền tự chủ của dân ta. Giao Chỉ, Cửu Chân của nước ta thời kỳ này còn ở Nam Trung Quốc (Hoa Nam).


    Tình hình Hoa Nam là lưu vực phía Nam sông Dương Tử hết sức rối ren nên lúc Hán triều suy yếu, thủ lĩnh các địa phương lãnh đạo quần chúng đứng lên giành lại độc lập tự chủ, mỗi người hùng cứ một nơi. Anh hùng Khôi Hiệu rồi Công Tôn Thuật chiếm cứ Ba Thục, Lý Quảng chiếm giữ Hoãn Thành tỉnh An Huy, Duy Dĩ chiếm Hồ Nam rồi xưng là Sở Lê Vương đã tạo thành một cao trào giải phóng dân tộc. Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh thuộc hàng danh gia vọng tộc nên nuôi dưỡng hoài bão "Nối lại nghiệp xưa vua Hùng". Trưng Trắc lấy chồng tên là Thi, danh sĩ đất Giao Châu cùng chí hướng, con trai của Lạc tướng Chu Diên là người có chí khí hơn người. Việc liên kết hai dòng họ không qua mắt được quân thù nên khi Tô Định đem quân Hán xâm lược tới phủ trị cho quân đến vây bắt hai vợ chồng Trưng Trắc. Thiên Nam Ngữ Lục chép: “Khi thấy quân Tô Định thế mạnh, Thi khuyên vợ nên đi đường tắt về Hát Môn. Nhân đấy hai chị em kéo về Hát Môn, lập thành lũy chuẩn bị dụng binh. Thế cô nên Thi không chống cự nổi bị Tô Định giết chết, đốt phá dinh thự. Tin dữ truyền đến Hát Môn, chị em Trưng Trắc quyết chí báo thù, truyền hịch đi khắp thiên hạ dấy nghĩa”.     Đầu năm Kỷ Hợi 39 DL, Trưng nữ Vương xuất quân đánh ngay vào Trường Sa, trị sở Đô Úy của Hán triều. Trận chiến do Trưng Nhị cùng các nữ tướng Phật Nguyệt, Trần Thiếu Lan, Trần Năng, Lại Thế Cường đánh thắng quân Hán ở Đô Uý Trị huyện Mê Linh thuộc Trường Sa, giết chết Tô Định, tàn quân Hán tháo chạy về nước. Hán sử chép là Tô Định tháo chạy, còn các quan chức Thứ Sử Thái Thú chỉ giữ được mạng sống của chúng mà thôi. Sách "An Nam Chí Lược" và "Thiên Nam Ngữ Lục" chép Tô Định bị giết chết tại trận. Đây là chiến thắng vang dội mở đầu cho các chiến thắng liên tiếp trên các quận huyện. Trong vòng hơn 1 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì trên khắp Hoa Nam. Quân Hán cuốn vó chạy dài, Hán triều thất điên bát đảo. Nhân dân suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua, lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Trưng Nữ Vương cảm thông nỗi khốn khó của nhân dân nên ban hành chiếu chỉ miễn thuế cho nhân dân 2 năm liền. Sách Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên chép: “Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục được các Lạc Tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua”.  

Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép Bà Trưng lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Hùng Lạc nên Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca viết: “Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta...”.     Quân dân Việt đã chiếm lại toàn bộ lãnh thổ xưa của Nam Việt, Hán Đế phải cử Mã Viện là một danh tướng của triều Hán làm Phục Ba Tướng quân là chức cũ của Lộ Bác Đức thời Hán Vũ Đế đánh Nam Việt. Điều này có nghĩa là nhân dân Nam Việt đã làm chủ lãnh thổ nên phải cử Mã Viện tiến đánh Nam Việt như thời Hán Vũ Đế vậy. Địa danh Phan Hồ còn gọi là Tây Hồ ở vùng Ô Diên tỉnh Hồ Nam thuộc Giang Nam tức phía Nam sông Dương Tử là vùng núi có hình con chim Điêu, chim Ó sau đổi thành Chu Diên quê hương của Thi, chính là vùng Hai Bà đã đóng quân chống quân Hán xâm lược. Phan Hồ còn gọi là hồ Tây hay hồ Dâm Đàm là một trong 5 hồ rộng lớn ở Giang Nam, sóng nước mênh mông nên còn gọi là hồ Lãng Bạc.     

Mùa hè năm 43, Mã Viện hành quân đến Lãng Bạc mà theo Thủy Kinh Chú thì: “Ở phía Bắc huyện Phong Khê có con sông chảy về phía Đông qua Lãng Bạc. Mã Viện cho đó là đất cao bèn từ Tây Lý đem quân đến đóng ở đấy. Sông ấy lại chảy về phía Đông qua phía Nam thành cũ huyện Long Uyên...”. Sử gia Đào Duy Anh cũng như các nhà sử học Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhất loạt gán ghép một cách vô lý đó là con sông Thiếp. Tây Lý là Tây Vu vì chữ Vu bị chép lầm thành chữ Lý để cho rằng Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du ở Bắc Ninh bây giờ. Thủy Kinh chú còn viết rằng con sông này còn gọi là sông Nam, thực ra đó chính là sông Việt (Việt giang). Để người dân Việt quên đi tên sông Việt, Hán tộc đã đổi tên là Tây giang gồm 2 nhánh Tả giang và Hữu giang bắt nguồn từ Uất Lâm phía Bắc Quảng Tây chảy xuống Đông Nam ra thành cũ huyện Long Uyên ở Quảng Đông Trung Quốc.


      Sách Lĩnh Nam Trích Quái chép: “Hai Bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị người ở huyện Mê Linh đất Phong Châu, con gái quan Hùng tướng đất Giao Châu.” Sách "Cựu Đường Thư" của Lưu Hú chép: “Phong Châu ở Tây Bắc An Nam, Sở trị là Gia Ninh. Đời Hán, huyện Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ là đất của Văn Lang Di xưa”. Sách "Cựu Đường Thư" đã ghi rõ là “Phong Châu ở hướng Tây Bắc An Nam chứ không phải ở vùng Tây Bắc của nước An Nam”. Sách "Thông Điển" của Đỗ Hựu đời Đường chép: “Phong Châu là đất Văn Lang xưa, có con sông tên là Văn Lang.”. Thủy Kinh chú dẫn "Lâm Ấp Ký" chép: “Phía Nam Chu Ngô có giống người gọi là Văn Lang. Họ không biết xây nhà mà ở trên cây (ở nhà sàn), ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Phía Nam huyện đó có con sông nhỏ tên là Văn Lang Cứu”. Đến đời Thái Khang triều Tùy mới đổi Giao Chỉ thành Giao Châu. Phong Châu trước là quận Tân Xương, sau đổi là Hưng Châu. Đời Khai Hoàng đổi lại là Phong Châu, đến năm Đại Nghiệp thứ 3 gồm Phong Châu vào Giao Châu gọi là quận Giao Chỉ. Như vậy Phong Châu này là Phong Châu Hạ mà đời Tùy là huyện Gia Ninh. Mãi đến năm Vũ Đức thứ tư đời Đường năm 621 mới chính thức lập Phong Châu gồm 6 huyện.


      Theo Thông Sử Dân Gian được chép trong "Thiên Nam Ngữ Lục" thì Hai Bà Trưng rút xuống vùng Vân Nam, lập căn cứ ở nước Nam Chiếu, về sau Hai Bà bệnh mà chết. Khi Mã Viện tiến đánh Vân Nam thì các Lạc Hầu Lạc Tướng dẫn dân quân và gia đình con cháu lui xuống phương Nam tiếp tục mở đất từ Tứ Xuyên xuống Vân Nam, Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ thành lập các quốc gia Đại Lý, Nam Chiếu, một số khác xuống phương Nam dọc theo dãy Trường Sơn thành lập các vương quốc Champa và Phù Nam sau này. Cũng theo Thông sử dân gian thì sau khi quốc gia Nam Việt mất vào tay Hán tộc, con cháu họ Triệu và quân dân Nam Việt xưng là dân nước Nam Chiếu. Chi Âu Việt gọi vua là "Chiếu" nên Nam Chiếu là dân nước Nam thực hiện chiếu chỉ của vua Nam chống Hán tộc. Trong một trận thủy chiến họ đã giết được viên Thú Lệnh của Hán triều rồi theo đường biển từ La Phù, Hợp Phố, ra Chu Nhai và Đam Nhĩ (đảo Hải Nam) rồi về tới Đồ Sơn và một số vượt biển xuống phương Nam định cư ở Nam Dương (Indonesia). Hán sử chép là sau khi đánh chiếm Nam Việt, Hán triều chia đảo Hải Nam ra làm 2 quận Chu Nhai và Đam Nhĩ. 

Theo các công trình nghiên cứu thì dân địa phương trên đảo là người Việt cổ chi tộc Lê nên gọi là Lạc Lê, ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng. Chính vì thế mà quân dân Nam Việt dễ dàng hội nhập vì cùng một nguồn cội. Họ cùng nhau tiếp tục kháng chiến chống quân Hán xâm lược nên năm 81 TDL, Hán triều phải bỏ Đam Nhĩ rồi đến năm 46 TDL, Hán triều lại phải bỏ Chu Nhai vì chịu thiệt hại nặng nề. 

Ngày nay, 4 triệu người Minangkabau trên đảo Sumatra Indonesia tự nhận là hậu duệ của Hai Bà Trưng. Người Minangkabau còn lưu giữ bản sắc văn hóa Việt cổ với trống đồng Đông Sơn. Bảo tàng Quốc gia Indonesia giữa thủ đô Jakarta hiện trưng bày bốn chiếc trống đồng Đông Sơn mà họ gọi là gendang với các hình mặt trời và hình người chèo thuyền, chim Lạc giống hệt như ở trống ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Sau gần 2 ngàn năm, họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ giống như người Việt cổ thời xa xưa. Người con gái Minangkabau vẫn giữ quyền thừa kế trong thị tộc và được gọi là Turun Cicik, em gái của Turun Cicik nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi rất giống tên gọi của hai Bà Trưng: Trưng Trắc và Trưng Nhị.      

Sử sách chép rằng nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nhất tề hưởng ứng Hai Bà Trưng nên chỉ trong 1 tháng Hai Bà đã đánh chiếm 65 thành trì dễ như trở bàn tay. Căn cứ vào "Quận Quốc Chí" của "Hậu Hán Thư" thì Nam Hải có 7 thành, Thương Ngô 11 thành, Uất Lâm 11 thành, Hợp Phố 5 thành, Giao Chỉ 12 thành, Cửu Chân 5 thành, Nhật Nam 5 thành, như vậy là 53 thành. Nếu cộng với 12 thành ở Dương Châu và Kinh châu mới đủ 65 thành đúng với con số thành mà Hai Bà Trưng đã chiếm được. Điều này chứng tỏ cuộc chiến đã diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc bao gồm các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kinh Châu và Dương Châu. 

Sự kiện này đã được xác nhận qua thực tế lịch sử là nhân dân Hoa Nam cho đến nay vẫn tôn thờ sùng kính Hai Bà Trưng mà họ gọi một cách thân thương là vua Bà. Sự tôn sùng thờ kính vua Bà đã trở thành một tôn giáo dân gian gọi là đạo "Thờ Vua Bà". Nhân dân khắp các tỉnh Hoa Nam từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam có trên một trăm đền thờ, miếu thờ vua Bà và những nữ tướng của Hai Bà. "Địa Phương Chí" của sở du lịch Trường Sa viết:“Miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan ở đầu sông Tương.”. Như vậy, trận đánh đầu tiên của Trưng Nhị cùng các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Trần Thiếu Lan, Lại thế Cường đánh Trường Sa vào đầu năm Kỷ Hợi tức năm 39. Trong trận đánh này, Nữ tướng Trần Thiếu Lan đã hi sinh được quân dân mai táng ở ghềnh sông Thẩm Giang. Thẩm Giang là một đoạn sông ngắn ở phía Bắc tiếp nối với hồ Động Đình. Sự kiện này cũng được ghi trong "Quốc Phổ" thời Nguyễn chép rằng các sứ thần nước ta từ các triều Lý, Trần, Lê... khi đi ngang qua đây đều sắm lễ vật đến cung miếu thờ vị liệt nữ anh hùng dân tộc Trần Thiếu Lan. Trong đền có đôi câu đối:
                                               Tích trù Động Đình uy trấn Hán,                                                       
Phương lưu thanh sử lực phù Trưng ”

                                              Động Đình chiến sử danh trấn Hán,                                                                 
Sử xanh ghi mãi sức phù Trưng...

     Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sĩ thì khi Mã Viện huy động đại quân tiến đánh quân ta, Hai Bà giao cho 3 vị tướng họ Đào là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang có nhiệm vụ trấn giữ Tượng quận là vùng đất ở giữa Vân Nam và Quảng Tây. Quân số ít oi, ba vị tướng họ Đào đã tử thủ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhân dân địa phương trân trọng lập đền thờ bên trong có đôi câu đối:


                                           Tượng quận giương uy nhiêu tướng lược,                                                             
 Bồ Lăng tuẫn tiết tận thần trung...

     Sau khi bị Hán tộc xâm lược đẩy lùi dân tộc ta về phương Nam, tiền nhân ta đã mang theo tên Mê Linh, Tây hồ xa xưa để đặt tên cho vùng đất mới ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú. Thế mà các nhà viết sử của nước ta cứ chép là Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh Bắc Việt Nam và cứ sao y bản chánh Hán sử chép rằng Bồ Lăng nay là bến Bồ Đề ở ngoại ô thành Thăng Long. Họ cứ nhắm mắt tin vào cái gọi là "Chính sử" mà quên đi một điều là các sử gia Hán đã cố tình bóp méo sự thật, lấy tên cũ đặt cho vùng đất mới để xoá nhoà dấu vết của địa danh xưa cũ thời Văn Lang còn trải rộng khắp Hoa Nam. Trong khi đó "Việt Chí" và "Thiên Nam Ngữ Lục" là thiên trường ca lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời hậu Trần gồm 8.136 câu viết theo thể lục bát chép rằng:“Hai Bà Trưng sau khi đánh chiếm được 65 thành thì bị đại quân của Mã Viện tiến đánh. Hai Bà chống cự không nổi phải rút lui dần.”.  Hai Bà không bị Mã Viện chém đầu mang về Lạc Dương như Hậu Hán Thư chép và Hai Bà cũng không nhảy xuống tuẫn tiết trên dòng sông Hát mà Hai Bà vẫn tiếp tục chiến đấu như trong "Mã Viện Truyện" chép lại. Tương truyền Hai Bà xây thành giống tổ kén nên gọi là Kiển thành ở vùng Tư Minh, Vân Nam Trung Quốc bây giờ. 

Sự kiện này đã được Lệ Đạo Nguyên xác nhận trong tác phẩm Thuỷ Kinh Chú là đến năm 42, Mã Viện tâu trình kế hoạch tiến quân đánh Hai Bà ở Vân Nam như sau: “Năm Kiến Vũ thứ 19 tức năm 42, Phục Ba tướng quân là Mã Viện tâu lên vua rằng: Đi từ Mê Linh ra Bôn Cổ huyện Thuý tỉnh Vân Nam để đánh Ích Châu, thần sẽ đem hơn vạn người Lạc Việt, trong đó có hơn 3 nghìn người từng theo Viện chiến đấu có mang tên tẩm thuốc độc, bắn một lần mấy phát, tên bắn như mưa trúng ai nấy chết...”. Sách Thủy Kinh Chú chép về địa danh Mê Linh rõ hơn: “Huyện Tiến Tang là Đô uý trị ở miền Nam quận Tường Kha. Trên sông có cửa quan nên gọi là cửa Tiến Tang. Mã Viện xưa nói rằng theo đường sông Mê Linh ra vương quốc Tiến Tang, đến huyện Bí (Bôn) Cổ thuộc Ích Châu, chuyên chở thuận lợi nên đường binh xa chuyên chở là do đó...”. Như vậy rõ ràng là sông Mê Linh nằm ở cửa Tiến Tang miền Nam huyện Tường Kha ở Trường Sa tỉnh Hồ Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như các sử gia vẫn chép từ trước đến giờ. 

Theo Lĩnh Nam Trích Quái, Triệu Vũ Đế của Nam Việt cũng là người Chân Định, Trường Sa Hồ Nam Trung Quốc. Đất Mê Linh lúc trước gọi là My Linh thuộc nước Sở, về sau là vùng Trường sa, Phan Hồ tỉnh Hồ Nam, nơi mà Hán Vũ Đế đặt Đô Uý Trị ở đó năm Nguyên Đĩnh thứ 6 tức năm 111 TDL sau khi đánh thắng Nam Việt.     Trưng Trắc là con Lạc tướng đất Mê Linh thuộc danh gia vọng tộc nên đã kết duyên với Thi là danh sĩ đất Giao Châu, con của Lạc tướng Chu Diên để chung lo đại cuộc như hịch xuất quân của vua Bà “Một xin rửa sạch thù nhà, hai xin nối lại nghiệp xưa vua Hùng... ..”. 

Sách Lĩnh Nam Trích Quái chép: “Hai Bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị, người ở huyện Mê Linh đất Phong Châu, con gái quan Hùng Tướng đất Giao Châu”. Thủy Kinh Chú quyển XXXVII Diệp Du Thủy của Lệ Đạo Nguyên chép: “…Con Lạc tướng huyện Chu Diên - tên là Thi, đi hỏi con gái Lạc tướng huyện Mê Linh - tên Trưng Trắc, làm vợ. Trắc là người can đảm, phụ trợ Thi làm giặc, đánh phá các Châu, Quận, uy phục các Lạc tướng, để tất cả đều để cho Trắc làm vua, Đô ở huyện Mê Linh, được dân ở 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân nộp 2 năm thuế hộ. Sau đó Hán triều sai Phục Ba tướng quân Mã Viện đưa quân đánh dẹp, Trắc, Thi chạy vào vùng hang động Kim Khê, 3 năm (sau) mới trừ được.  

Mê Linh ở đây là tên vùng đất và tên con sông ở Trường Sa, miền Nam Tiến Tang, quận Tường Kha tỉnh Hồ Nam Trung Quốc bây giờ. Đất Phong Châu ở đây mà sách sử cũ gọi là Phong Châu Thượng ở giữa Quý Châu và Vân Nam, còn Phong Châu Hạ ở Phú Thọ Bắc Việt Nam là tên sau này do Triều Đường đô hộ nước ta mới đặt tên năm 621 DL. Sách "Đại Việt Sử Ký" của Lê văn Hưu viết: “Trưng Trắc Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương giống như trở bàn tay, đủ thấy là tình thế nước Việt ta có thể dựng được cơ nghiệp Bá Vương”.  

Lê Tung trong tác phẩm "Thông Giám Tổng Luận" ghi rõ hơn về dòng dõi Hai bà Trưng: “Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tiếng là dũng lược, căm hận về chính lệnh hà khắc bạo ngược của Tô Định, hăng hái đem người các bộ, nổi quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh ngọai, thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong giới nữ lưu”.  Sách "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" viết về Hai Bà như sau: “Vua tiến đến đâu, gió lướt đến đấy… Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và Mán đều theo. Lược định được 65 thành ở Lĩnh Nam. Ngài tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”.  


Danh nho Nguyễn Trãi trong "Dư Địa Chí" đã viết Trưng Nữ Vương lên ngôi, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc. Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép: “Kinh Dương Vương dựng nước gọi là Xích Quỷ, Hùng Vương gọi nuớc là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, Triệu (Đà) gọi nước là Nam Việt, đóng đô ở Phan Ngu (Phiên Ngung), Trưng (Vương) lại gọi là Hùng Lạc đóng đô ở Mê Linh”. Hàng năm toàn dân Việt vẫn tổ chức Đại lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng với tất cả sự thành kính xen lẫn niềm tự hào về hai Bà, bậc nữ lưu Việt tộc đã lưu lại trang sử oanh liệt hào hùng đã mở ra một mùa Xuân Dân tộc. Với lòng yêu nước thương nòi và tấm lòng trung trinh tiết liệt thanh cao vời vợi của người phụ nữ Việt Nam, Hai Bà đã biểu trưng cho khí phách anh hùng của bậc nữ lưu. Giá trị tinh thần này không chỉ riêng cho Việt Nam mà còn là di sản văn hoá của cả nhân loại nữa.

Ngày nay, 4 triệu người Minangkabau trên đảo Sumatra Indonesia tự nhận là hậu duệ của Hai Bà Trưng. Sách Thiên Nam Ngữ Lục viết rằng tướng lĩnh cùng quân lĩnh và gia đình dòng tộc của Hai Bà đi xuống phương Nam thành lập các quốc gia Lâm Ấp, Phù Nam và vượt biển xuôi Nam xuống Malacca rồi sang Indonesia. Hiện chi tộc này còn lưu giữ bản sắc văn hóa Việt cổ với trống đồng Đông Sơn Bảo tàng Quốc gia Indonesia giữa thủ đô Jakarta hiện trưng bày bốn chiếc trống đồng Đông Sơn (Dongson kettledrum) mà họ gọi là gendang với các hình mặt trời và hình người chèo thuyền, chim Lạc giống hệt như ở trống ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

 Người Minangkabau sống trong ngôi nhà sàn nóc oằn và đầu dao cong vút in hệt nhà sàn trên mặt trống đồng. Sàn nhà cách mặt đất độ gần 2m, bên trong được chia làm ba phần thông thoáng nhau không có vách ngăn cách, gian chính ngay giữa nhà là gian tiếp khách, còn lại là khu giường ngủ và bếp. Nhà kho chứa nông sản được xây cất riêng, cũng có mái cong như nhà chính. Những ngôi nhà Rumah Gadang vừa là nơi cư trú, vừa là nơi gặp gỡ hội họp trong gia đình và tiến hành những hoạt động nghi thức cộng đồng. Đặc biệt, tộc người này theo chế độ thị tộc mẫu hệ giống như người Việt cổ. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, em gái của Turun Cicik nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Hai danh xưng này rất giống tên gọi của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cư dân Minangkabau sinh sống bằng nghề trồng lúa từ lâu đời, và họ vẫn bảo lưu bản sắc văn hóa Việt cổ như ăn trầu nhuộm răng, đầu dắt lông chim ca hát nhảy múa trong những ngày lễ hội.

 Ngoài ra còn có 3 triệu người Dayak là cư dân bản địa Borneo lâu đời. Tương truyền tổ tiên của họ đã di cư từ lục địa châu Á ra đảo từ hơn 3.000 năm trước. Nghề luyện kim từ Đông Sơn Việt Nam được truyền đến hòn đảo này cách nay khoảng hơn 2 nghìn năm. Phần lớn người Dayak sống bằng nghề làm ruộng lúa nước ven sông, làm rẫy, trồng cọ trên những ngọn đồi thấp... Họ cũng làm các nghề thủ công, nghề gốm, nghề dệt thổ cẩm, nghề đúc, săn bắt, chài lưới… Những người thuộc đại chủng Bách Việt Malayo-Viets vẫn giữ nguyên bản sắc văn hóa truyền thống Việt với việc tôn thờ hình tượng Rồng và Chim Thần, hai linh vật trong truyền thuyết về sự ra đời của dân tộc Dayak.