Trong suốt dòng lịch sử, Hán tộc
đã thống trị nước ta tất cả 9 lần, kể từ năm 111 TDL đến khi anh hùng dân tộc
Ngô Quyền giành độc lập năm 938. Tính ra hơn 1 ngàn năm nhưng trên thực tế, trừ
đi thời gian các anh hùng dân tộc vùng lên giành quyền tự chủ thì Hán tộc thống
trị nước ta tổng cộng là 859 năm.
1. HÁN TỘC THỐNG TRỊ LẦN THỨ
NHẤT (111-39TDL)
Sau khi Hán tộc xâm chiếm Nam Việt, triều
Hán chia Nam Việt ra thành 9 quận. Nước ta trên danh nghĩa bị Hán tộc thống trị
từ năm 111 TDL nhưng trên thực tế, triều Hán vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ
miền Nam Trung Quốc (Hoa Nam). Hai quận Giao Chỉ Cửu Chân ở Bắc Việt Nam vẫn do
2 viên Điển Sứ và các Lạc Tướng cai trị. Cuối đời Tây Hán, tình hình trung
nguyên xáo trộn. Vương Mãng, ngoại thích Hán triều nổi lên lật đổ triều Tây Hán
lập ra triều đại Tân Mãng (9-23). Năm 23, phong trào Lục Lâm nổi lên đánh chiếm
kinh đô, giết Vương Mãng. Lưu Tú lên ngôi xưng là Quang Vũ rồi dời đô về Lạc
Dương nên sử Trung Quốc gọi là triều Đông Hán.
TRƯNG NỮ VƯƠNG
PHỤC QUỐC HÙNG LẠC
Từ xa xưa mãi cho đến ngày nay, hàng năm toàn dân Việt vẫn tổ chức Đại lễ
kỷ niệm “Hai Bà Trưng” với tất cả sự thành kính xen lẫn niềm tự hào về hai Bà,
bậc nữ lưu Việt tộc đã lưu lại trang sử oanh liệt hào hùng của dân tộc. Thế
nhưng, các sách sử Việt Nam cứ trích dẫn sử Trung Quốc nên cho đến ngày nay,
chúng ta vẫn chưa biết gì hơn về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng ngoài những
sách sử của Trung Quốc ghi chép lại với luận điệu của “Thiên triều Đại Hán”.
Chính vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu xem bối cảnh lịch sử của cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng và nơi đã xảy ra cuộc chiến đầu tiên của Hai bà với quân xâm lược,
chúng ta sẽ thấy toàn bộ vấn đề với ý nghĩa cao đẹp của sự thật lịch sử bị chôn
vùi hơn 2 ngàn năm nay.
Hậu Hán thư, Mã Viện truyện của Phạm Việp sử gia triều Hán viết về Hai
Bà Trưng như sau:“Người đàn bà ở Giao Chỉ
tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhị làm phản, đánh chiếm các quận (Chú: Trưng
Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ người huyện Chu Diên tên là Thi
(Sách) rất hùng dũng (1). Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật
mà ràng buộc, Trắc oán giận mà làm phản). Người man di các quận Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp chiếm hơn sáu mươi thành ở Lĩnh Ngoại. Trắc tự
lập làm vua. Bấy giờ vua (Hán) cho Viện làm Phục Ba Tướng quân, lấy Phù Lạc Hầu
Lưu Long làm phó, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân Đàn Chi đánh Giao Chỉ ở
phương Nam. Quân đến Hợp Phố thì bị bệnh chết. Vua chiếu cho Mã Viện kiêm thống
suất binh của Chí. Viện bèn dọc theo bờ biển mà tiến, theo núi phát đường hơn
nghìn dặm. Năm 18, quân đến Lãng Bạc, đánh phá được giặc, chém hơn nghìn đầu,
giặc đầu hàng đến hơn vạn người. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cẩm Khê,
đánh thắng nhiều lần giặc tan chạy. Năm sau tháng giêng chém Trưng Trắc, Trưng
Nhị gửi đầu về Lạc Dương.(Chú: Việt chí nói rằng Trưng Trắc khởi binh, đóng đô ở
huyện Mê Linh. Khi bị Mã Viện đánh chạy vào suối Kim Khê, 2 năm sau mới bắt được)”.
Hán sử với luận điệu “Thiên triều” cho rằng Tô Định là tên thái thú tham
lam tàn bạo nên Hai Bà Trưng mới đứng lên chống lại. Đây chính là luận điểm của
Hán tộc cho rằng dân Việt vẫn chịu thuộc Hán nhưng chỉ vì thái thú tham lam tàn
bạo nên người Việt mới đứng lên chống lại sự đô hộ của những tên Thái Thú tham
lam tàn bạo này mà thôi. Các sử gia Việt Nam, từ Ngô Sĩ Liên tới các sử gia sau
này cứ sao chép rập khuôn luận điệu xuyên tạc bóp méo lịch sử của các sử gia “Đại
Hán”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết: “Năm Ất Hợi, năm thứ 15 niên hiệu Kiến Vũ, thái thú Giao Chỉ là Tô Định
là người tham lam bạo ngược. Trưng Nữ Vương nổi binh để đánh. Năm Canh Tý tháng
2 mùa Xuân, Ngài khổ vì Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc và thù Định giết chồng
mình bèn cùng em là Trưng Nhị cử binh đánh lấy các châu trị …”.
Lịch
sử chứng minh rằng Bà Trưng đã lãnh đạo các Lạc Tướng cùng với nhân dân
đứng lên giành độc lập dân tộc. Sau khi đánh đuổi quân Hán ra khỏi đất nước,
các Lạc Hầu Lạc Tướng và toàn dân đã suy tôn Trưng Trắc lên làm vua, đóng đô ở
Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc để tiếp nối sự nghiệp của vua Hùng.
BÀ TRƯNG ĐÁNH ĐUỔI QUÂN HÁN XÂM LƯỢC
Sử
Trung Quốc chép rằng sau khi chiếm Nam Việt, Hán triều đổi tên nước là Nam Việt
thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận gồm: Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô
(Quảng Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Hợp Phố (Quảng Châu), Giao Chỉ (Bắc Việt
Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ An ), Châu Nhai (Đảo Hải
Nam) và Đạm Nhĩ (nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam). Tuy chiếm được Nam Việt
nhưng Hán Vũ Đế không dám tiến quân xuống Tây Âu Lạc vì lời khuyên của Lưu An
nhắc lại kinh nghiệm thất bại năm xưa của đại quân Tần. Vì thế Lộ Bác Đức đóng
quân ở Hợp Phố, chờ 2 viên Điền sứ của Triệu Đà dâng nộp ấn tín sổ sách và một
ngàn vò rượu rồi giao cho 2 viên Điền sứ tiếp tục cai trị như xưa. Hậu Hán Thư
chép: “Năm 111 TDL, sau khi chiếm được
Nam Viêt rồi thì Lộ Bác Đức phải nhờ “Việt Quế Lâm Giám Cư Ông dỗ Âu Lạc thuộc
Hán”. Như vậy, các quận Giao Chỉ (Bắc
Việt Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá) và Nhật Nam (Nghệ An) vẫn do 2
viên Điển sứ và các Lạc Tướng cai quản chứ không do Hán triều thống trị trực tiếp.
Trên thực tế, Hán triều vẫn không kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Nam Việt
chứ đừng nói tới Âu Lạc. Sau khi Thạch Đái chết, Hán Chiêu Đế cử Chu Chương làm thứ sử Giao Châu. Từ đó đến thời
Đông Hán, sử sách Trung Quốc không nhắc gì đến Giao Chỉ cả. Điều này chứng tỏ rằng,
nhân dân Hoa Nam đã nổi lên giành quyền tự chủ nên sử Hán không ghi chép gì vào
thời kỳ này. Mãi đến khi Vương Mãng lật triều Tây Hán để lập triều đại Tân từ
năm 9 đến 23, mà Hán sử chỉ chép vỏn vẹn
là “quan châu mục Giao Chỉ là Đặng Nhượng
và các quận đều đóng bờ cõi tự phòng trị một thời gian”. Năm 25, Lưu Tú lên
ngôi lấy hiệu là Hán Quang Vũ, năm sau Hán triều cử Sầm Bành xuống đánh Kinh
Châu. Sầm Bành viết thư cho Đặng Nhượng mãi tới năm 29 thì Giao Chỉ mục mới cử
Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và thái thú các quận là nhóm Đỗ Mục mới sai sứ
sang cống, tất cả đều được phong làm Liệt Hầu. Sử Hán chép là các quan châu mục
tự cai quản nhưng trên thực tế, các thủ lĩnh Quân trưởng Việt đã cùng với nhân
dân đứng lên giành lại quyền tự chủ. Sử TQ Hậu Hán thư chép: “Xưa Sầm Bành cùng Giao Chỉ mục Đặng Nhương
quen biết thân thiện nên viết thư cho Nhượng trình bày uy đức quốc gia, rồi lại
sai Thiên tướng quân Khuất Sung gửi hịch đến Giang Nam ban hành chiếu mạng. Do
thế, Nhượng cùng Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Vũ Lăng là Vương Đường,
tướng Trường Sa là Hàng Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh
Lăng là Điền Hấp, thái thú Thương Ngô Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cùng
nhau sai sứ sang cống. Tất cả đều được phong là Liệt Hầu”. Như vậy, chỉ có
Thái thú Giao Chỉ lúc này còn ở Hoa Nam mà không nhắc gì đến Cửu Chân(2).
Năm 29, Hán triều mới cử Nhâm Diên sang làm Thái thú Cửu Chân thì đến
năm 32, Hán triều đã phải “bãi chức” thái thú Cửu Chân của Nhâm Diên. Hán sử
chép là “Năm 31, triệu hồi Thái thú Giao
Chỉ Tích Quang về triều” mà không nói gì thêm, điều này có nghĩa là nhân
dân Cửu Chân, Giao Chỉ ở Hoa Nam đã giành lại độc lập tự chủ. Mãi đến năm 34,
Triều Hán mới cử Tô Định là tên võ quan làm thái thú để đem quân đi đánh chiếm
lại những vùng đã thuộc quyền tự chủ của dân ta. Trong khi đó, sách Đại Việt Sử
lược không rõ tên tác giả viết vào khoảng đời Trần, dù bị Tiền Hy Tộ sử quan
triều Thanh sửa đổi nhưng vẫn không thấy chép gì về Nhâm Diên và Tích Quang. Đại
Việt Sử lược chép mục “Quan thủ nhậm qua các thời đại” chỉ ghi là “Thạch Đái thời Vũ Đế (140-86 TDL), Chu
Chương đời Chiêu Đế (86-74 TDL0, Nguỵ Lãng Tư Minh đời Tuyên Đế (73-48 TDL) rồi
tới Tô Định đời Hán Quang Vũ (34-40)”.
Như vậy rõ ràng là thời kỳ này, ở phần đất Bắc và Trung Việt Nam tuy sử
sách gọi là thuộc quận Giao Chỉ và Cửu Chân không có viên thái thú nào trấn nhậm
cả. Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng
Mê Linh thuộc hàng danh gia vọng tộc nên nuôi dưỡng hoài bão “Nối lại nghiệp
xưa vua Hùng”. Trưng Trắc lấy chồng tên là Thi, danh sĩ đất Giao Châu cùng chí
hướng, con trai của Lạc tướng Chu Diên là người có chí khí hơn người. Cuộc hôn
nhân ngoài tình yêu nam nữ còn là sợi dây liên kết 2 dòng tộc để cùng với toàn
dân đứng lên giành lại quyền tự chủ cho dân tộc. Vì thế, năm 39 khi Tô Định đem
quân đến Trường Sa, Trưng Trắc đã cử Trưng Nhị cùng các nữ tướng đã chặn đánh
tan tành quân Hán ở Trường Sa. Hán sử chép là Tô Định tháo chạy, còn các quan
chức thứ sử thái thú chỉ giữ được mạng sống của chúng mà thôi. Sách “An Nam Chí
lược” và “Thiên Nam Ngữ lục” chép Tô Định bị giết chết tại trận. Vua Hán phải cử
Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân là chức cũ của Lộ Bác Đức thời Hán Vũ Đế đánh
Nam Việt. Điều này có nghĩa là nhân dân Nam Việt đã giành lại nền độc lập tự chủ
nên vua Hán phải cử Mã Viện tiến đánh Nam Việt như thời Hán Vũ Đế vậy.
BÀ TRƯNG PHỤC QUỐC HÙNG LẠC
Sách sử xưa chép rằng việc liên kết hai dòng họ không qua mắt được quân
thù nên khi Tô Định đem quân Hán xâm lược tới phủ trị thì chúng cho quân đến
vây bắt hai vợ chồng Trưng Trắc. Thiên Nam Ngữ lục chép: “Khi thấy quân Tô Định thế mạnh, Thi khuyên vợ nên đi đường tắt về Hát
Môn. Nhân đấy hai chị em kéo về Hát Môn, lập thành lũy chuẩn bị dụng binh. Thế
cô nên Thi không chống cự nổi bị Tô Định giết chết, đốt phá dinh thự. Tin dữ
truyền đến Hát Môn, chị em Trưng Trắc quyết chí báo thù, truyền hịch đi khắp
thiên hạ dấy nghĩa”. Nhận được hung tin, Hai Bà làm lễ tế cờ rồi truyền
hịch đi khắp nơi dấy nghĩa “Giết quân Hán xâm lược để lập lại nghiệp xưa vua
Hùng”.
Đầu năm Kỷ Hợi (39DL), Trưng nữ Vương xuất quân đánh ngay vào Trường
Sa, trị sở Đô Úy của Hán triều. Trận chiến do Trưng Nhị cùng các nữ tướng Phật
Nguyệt, Trần Thiếu Lan, Trần Năng, Lại Thế Cường. Chiến thắng quân Hán ở
Đô Uý trị huyện Mê Linh thuộc Trường Sa, giết chết Tô Định, tàn quân Hán tháo
chạy về nước. Đây là chiến thắng vang dội mở đầu cho các chiến thắng liên tiếp
trên các quận huyện. Trong vòng hơn 1 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành
trì trên khắp Hoa Nam. Quân Hán cuốn vó chạy dài, Hán triều thất điên bát đảo.
Nhân dân suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua, lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở
Mê Linh. Trưng Nữ Vương cảm thông nỗi khốn khó của nhân dân nên ban hành chiếu
chỉ miễn thuế cho nhân dân 2 năm liền. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên chép:
“Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục
được các Lạc Tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua”.
Đây chính là truyền thống suy cử quân
trưởng Thủ lĩnh để nối nghiệp xưa của vua Hùng được các Lạc Tướng tôn trọng và
truyền lưu mãi tới thời Trưng Nữ Vương. Khi lên ngôi, Trưng Vương đặt quốc hiệu
là Hùng Lạc để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng và miễn thuế cho nhân dân 2 năm
để phục hồi sức dân. Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép Bà Trưng lên ngôi
vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc:
Đô kỳ
đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh
Nam riêng một triều đình nước ta... (3)
BÀ
TRƯNG ĐÁNH TAN QUÂN HÁN Ở HỒ NAM (TQ)
Sách sử xưa chép rằng Trưng Trắc, con gái Lạc tướng Mê Linh lấy con trai
Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách bị Tô Định giết chết nên Bà Trưng làm lễ tế cờ rồi
xuất quân khởi nghĩa. Đầu thế kỷ thứ 4, Lịch Đạo Nguyên, một người đã từng làm
việc ở Giao Chỉ nên rất thông hiểu, lịch sử, địa lý toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc
viết trong tác phẩm Thủy Kinh Chú Sớ rằng chồng của bà Trưng tên là Thi chứ
không phải Thi Sách vì Hán văn viết liền “Thi sách thê” nghĩa thi là lấy vợ và
một sự kiện khác là danh tướng Thi không bị Tô Định giết mà cùng với Trưng Trắc
đánh phá các quận, thu phục các Lạc Tướng. Thủy Kinh Chú Sớ chép: “ Con trai Lạc Tướng Chu Diên là Thi lấy con
gái Lạc Tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trưng Trắc là người can đảm dũng lược, cùng chồng là Thi đánh phá các quận, thu phục được các Lạc tướng. Trưng
Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh…”.
Trước đây các sử gia Việt Nam cứ cho rằng cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng
diễn ra ở Mê Linh trong lãnh thổ Bắc Việt Nam. Đây là một sự sai lầm vì chính
sách “Lĩnh Nam Trích Quái chép: “Hai Bà
Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị người ở huyện Mê Linh đất
Phong Châu, con gái quan Hùng tướng đất Giao Châu”. Địa danh Mê Linh ở Trường
sa và đất Phong Châu là Phong Châu Thượng ở giữa Vân Nam và Quí Châu chứ không
phải Phong Châu Hạ ở Bạch Hạc, Việt Trì Bắc Việt sau này do triều Đường mới đặt
tên năm 622. Sách “Cựu Đường thư” của Lưu Hú chép: “Phong Châu ở Tây Bắc An Nam, Sở trị là Gia Ninh. Đời Hán, huyện Mê Linh
thuộc quận Giao Chỉ là đất của Văn Lang Di xưa”. Cựu Đường thư đã ghi rõ là
Phong Châu ở hướng Tây Bắc An Nam chứ không phải ở vùng Tây Bắc của nước An
Nam. Sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường chép: “Phong Châu là đất Văn Lang xưa, có con sông tên là Văn Lang”. Thuỷ
Kinh chú dẫn Lâm Ấp ký” chép: “Phía Nam Chu
Ngô có giống người gọi là Văn Lang. Họ không biết xây nhà mà ở trên cây (ở nhà
sàn), ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Phía Nam huyện đó có con sông
nhỏ tên là Văn Lang Cứu”.
Sự thật lịch sử này đã được Lịch Đạo Nguyên xác nhận trong tác phẩm “Thuỷ
Kinh chú” là đến năm 42, Mã Viện tâu trình kế hoạch tiến quân đánh Hai Bà ở Vân
Nam như sau:“Năm Kiến Vũ thứ 19 tức năm
42, Phục Ba tướng quân là Mã Viện tâu lên vua rằng: Đi từ Mê Linh ra Bôn Cổ huyện
Thuý tỉnh Vân Nam để đánh Ích Châu, thần sẽ đem hơn vạn người Lạc Việt, trong
đó có hơn 3 nghìn người từng theo Viện chiến đấu có mang tên tẩm thuốc độc, bắn
một lần mấy phát, tên bắn như mưa trúng ai nấy chết. ..”. Mã Viện tiến quân
từ mạn Bắc xuống nên nếu Mê Linh là ở Bắc Việt Nam thì làm sao mà đi ra huyện
Thúy tỉnh Vân Nam được. Sách Thủy Kinh chú chép về địa danh Mê Linh rõ hơn: “Huyện Tiến Tang là Đô uý trị ở miền Nam quận
Tường Kha. Trên sông có cửa quan nên gọi là cửa Tiến Tang. Mã Viện xưa nói rằng
theo đường sông Mê Linh ra vương quốc Tiến Tang, đến huyện Bí (Bôn) Cổ thuộc
Ích Châu, chuyên chở thuận lợi nên đường binh xa chuyên chở là do đó …”.
Như vậy rõ ràng là sông Mê Linh nằm ở cửa Tiến Tang miền Nam huyện Tường Kha tỉnh
Hồ Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như các sử gia vẫn chép từ trước
đến giờ. Theo Lĩnh Nam trích Quái, Triệu Vũ Đế của Nam Việt cũng là người Chân
Định (Trường Sa tỉnh Hồ Nam TQ) là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Đất Mê Linh
lúc trước gọi là My Linh thuộc nước Sở, về sau là vùng Trường sa, Phan Hồ tỉnh Hồ
Nam, nơi mà Hán Vũ Đế đặt “Đô Uý trị” ở đó năm Nguyên Đĩnh thứ 6 tức năm 111
TDL sau khi đánh thắng Nam Việt. Sự kiện này một lần nữa xác nhận Mê Linh lúc
đó là địa danh ở Trường Sa, Tây hồ tỉnh Hồ Nam Trung Quốc.
Sau khi bị Hán tộc xâm lược đẩy lùi dân tộc ta về phương Nam, tiền nhân
ta đã mang theo địa danh Mê Linh, Tây hồ xa xưa để đặt tên cho vùng đất mới ở
làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú. Địa danh Phan Hồ còn gọi là Tây Hồ ở
vùng Ô Diên tỉnh Hồ Nam thuộc Giang Nam tức phía Nam sông Dương Tử là vùng núi
có hình con chim Điêu, chim Ó sau đổi thành Chu Diên quê hương của danh tướng
Thi, chính là vùng Hai Bà đã đóng quân chống quân Hán xâm lược. Phan Hồ còn gọi
là hồ Tây hay hồ Dâm Đàm là một trong 5 hồ rộng lớn ở Giang Nam, sóng nước mênh
mông nên còn gọi là hồ Lãng Bạc. Mùa hè năm 43, Mã Viện hành quân đến Lãng Bạc
mà theo Thủy Kinh chú thì: “Ở phía Bắc
huyện Phong Khê có con sông chảy về phía Đông qua Lãng Bạc. Mã Viện cho đó là đất
cao bèn từ Tây Lý đem quân đến đóng ở đấy. Sông ấy lại chảy về phía Đông qua
phía Nam thành cũ huyện Long Uyên”.
Sử gia Đào Duy Anh và các nhà sử học CHXHCNVN nhất loạt gán ghép một
cách vô lý đó là con sông Thiếp. Tây Lý là Tây Vu vì chữ Vu bị chép lầm thành
chữ Lý! để cho rằng Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du ở Bắc Ninh bây giờ.
Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên viết rõ rằng con sông này còn gọi là sông
Nam. Thực ra đó chính là sông Việt (Việt giang) mà sau này Hán sử cố tình chép
đổi lại là Tây giang gồm 2 nhánh Tả giang và Hữu giang bắt nguồn từ Uất Lâm
phía Bắc Quảng Tây chảy xuống Đông Nam ra thành cũ huyện Long Uyên ở Quảng Đông
Trung Quốc. Mặt khác, chính sử sách chép rằng nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phố nhất tề hưởng ứng Hai Bà Trưng nên chỉ trong 1 tháng Hai Bà đã
đánh chiếm 65 thành trì dễ như trở bàn tay.
Căn cứ vào “Quận quốc chí” của “Hậu Hán thư” thì Nam Hải có 7 thành,
Thương Ngô 11 thành, Uất Lâm 11 thành, Hợp Phố 5 thành, Giao Chỉ 12 thành, Cửu
Chân 5 thành, Nhật Nam 5 thành, như vậy là 53
thành. Nếu cộng với 12 thành ở Dương Châu và Kinh châu mới đủ 65 thành mới
đúng với con số thành mà Hai Bà Trưng đã chiếm được. Điều này chứng tỏ cuộc chiến
đã diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc bao gồm các quận Nam Hải,
Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kinh Châu và Dương
Châu. Sự kiện này đã được xác nhận qua thực tế lịch sử là nhân dân Hoa Nam cho
đến nay vẫn tôn thờ sùng kính Hai Bà Trưng mà họ gọi một cách thân thương là
vua Bà. Sự tôn sùng thờ kính vua Bà đã trở thành một tôn giáo dân gian gọi là đạo
“Thờ Vua Bà”. Nhân dân khắp các tỉnh Hoa Nam từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam,
Quí Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam có trên một trăm đền thờ, miếu thờ vua Bà và những nữ
tướng của Hai Bà.(4)
Trận chiến đầu tiên xảy ra đầu năm kỷ
Hợi 39 DL được “Địa phương chí” của sở du lịch Trường Sa Trung Quốc xác
nhận như sau: “Miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu
Lan ở đầu sông Tương”. Như vậy, trận đánh đầu tiên của Trưng Nhị cùng các
tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Trần Thiếu Lan, Lại thế Cường đánh Trường Sa vào
đầu năm Kỷ Hợi tức năm 39. Trong trận đánh này, Nữ tướng Trần Thiếu Lan đã hi
sinh được quân dân mai táng ở ghềnh sông Thẩm Giang. Thẩm Giang là một đoạn
sông ngắn ở phía Bắc tiếp nối với hồ Động Đình. Sự kiện này cũng được ghi trong
“Quốc phổ thời Nguyễn” chép rằng các sứ thần nước ta từ các triều Lý, Trần, Lê
... khi đi ngang qua đây đều sắm lễ vật đến cung miếu thờ vị liệt nữ anh hùng
dân tộc Trần Thiếu Lan. Trong đền có đôi câu đối:
Tích trù Động Đình uy trấn Hán,
Phương lưu thanh sử lực phù
Trưng …
Động Đình chiến sử danh trấn Hán,
Sử xanh ghi mãi sức phù Trưng
..!
Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sĩ thì khi Mã Viện huy động đại quân tiến
đánh quân ta, Hai Bà giao cho 3 vị tướng họ Đào là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống
và Đào Tam Lang có nhiệm vụ trấn giữ Tượng quận là vùng đất ở giữa Vân Nam và
Quảng Tây. Quân số ít oi, ba vị tướng họ Đào đã tử thủ chiến đấu đến hơi thở cuối
cùng. Nhân dân địa phương trân trọng lập đền thờ bên trong có đôi câu đối:
Tượng quận giương uy nhiêu tướng lược,
Bồ Lăng tuẫn tiết tận thần trung … (5)
Các
nhà viết sử trước đây cứ sao y bản chánh Hán sử chép rằng Bồ Lăng nay là bến Bồ
Đề ở ngoại ô thành Thăng Long. Họ cứ nhắm mắt tin vào cái gọi là “chính sử” mà
quên đi một điều là các sử gia Hán đã cố tình bóp méo sự thật, lấy tên cũ đặt
cho vùng đất mới để xoá nhoà dấu vết của địa danh xưa cũ thời Văn Lang còn trải
rộng khắp Hoa Nam. Trong khi đó “Việt chí” và ”Thiên Nam Ngữ lục” là thiên trường
ca lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời hậu Trần gồm 8.136 câu viết theo
thể lục bát chép rằng:“Hai Bà Trưng sau
khi đánh chiếm được 65 thành thì bị đại quân của Mã Viện tiến đánh. Hai Bà chống
cự không nổi phải rút lui dần”. Hai Bà không bị Mã Viện chém đầu mang về Lạc
Dương như Hậu Hán thư chép và Hai Bà cũng không nhảy xuống tuẫn tiết trên dòng
sông Hát mà Hai Bà vẫn tiếp tục chiến đấu như trong “Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện”
chép lại. Mặt khác trong khi sử Trung Quốc “Hậu Hán thư” chép là Hán Quang Vũ hạ
chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa thuyền xe, sửa chữa cầu
đường, thông miền khe núi, tích trữ lúa gạo từ những năm 40-41 thì thời gian
này, Mã Viện còn lo đánh Duy Dĩ ở Hồ Nam và Lý Quảng ở Hoãn Thành tỉnh An Huy
TQ bây giờ.
Mãi đến năm 42, Mã Viện mới được phong là Phục Ba tướng quân đem hơn vạn
quân các quận tiến đánh Hai Bà Trưng. Trong khi sách sử chép rằng trong vòng 1
tháng, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm 65 thành trì khắp 6 quận miền Hoa Nam bao gồm
Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải thì làm sao có thể
huy động được quân của các vùng này như Hậu Hán thư đã chép. Nếu có thì chỉ huy
động được hơn một vạn quân sau khi thắng Lý Quảng ở Hoãn Thành An Huy và Duy Dĩ
ở Hồ Nam để đánh Hai bà ở Trường Sa và vùng hồ Động Đình mà thôi.
Sau 3 năm ráo riết chuẩn bị, Hán triều cử Mã Viện đem đại quân tiến đánh
Hai bà. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt trên toàn cõi Hoa Nam. Trận chiến
cam go ác liệt nhất xảy ra ở vùng Lãng Bạc khi Hai Bà đem quân tấn công quân
Hán năm 43, Mã Viện phải rút quân lên vùng đất cao để đóng quân cố thủ. Quân
Hán không thích hợp với khí hậu mùa hè phương Nam nên bị dịch bệnh chết nhiều.
Tướng giặc Bình Lạc Hầu Hàn Vũ bị bệnh chết, quân sĩ hoang mang dao động. Sợ
lâm vào tình thế nguy ngập, Mã Viện lợi dụng quân số đông, lại có thuỷ bộ phối
hợp nên y dốc toàn lực liều chết phá vòng vây khiến quân ta bị tổn thất nặng.
Hai Bà Trưng phải rút về Cẩm Khê huyện Mê Linh để bảo toàn lực lượng. Trong suốt
2 năm, Mã Viện nhiều lần tấn công nhưng đều thất bại. Cuối cùng theo Hậu Hán
thư thì “Mã Viện đem quân đuổi theo Trưng
Trắc đến Cẩm Khê, hai bên giao chiến nhiều lần. Mã Viện giết được Trưng Trắc,
Trưng Nhị, đưa đầu về kinh đô Lạc Dương”. Chúng ta phải xét lại những gì Hậu
Hán thư chép vì không những mâu thuẫn với Thông sử dân gian mà còn mâu thuẫn
ngay với truyện Lưu Long trong Hậu Hán thư. Truyện Lưu Long, phó soái của Mã Viện
lại chép rằng Lưu Long đánh đuổi nghĩa quân đến Cẩm Khê, bắt được Trưng Nhị,
chém giết hơn ngàn người, bắt đầu hàng hơn vạn người mà không nói gì đến Trưng
Trắc.
Hậu Hán thư chép tiếp:“Tháng 11
năm 43, Viện đem lâu thuyền lớn nhỏ hơn 2 ngàn chiếc, chiến sĩ hơn 2 vạn người
đánh giặc Đô Dương ở Cửu Chân là dư đảng của Trưng Trắc từ Vô Công đến Cư
Phong, chém bắt hơn 5 ngàn người. Lĩnh Nam đều bình định. Viện tâu lên vua rằng
Tây Vu có hơn 3 vạn 2 ngàn hộ, vùng xa cách huyện đình hơn ngàn dặm, xin chia
làm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua đồng ý, chỗ Viện đi qua liền vì quận huyện dựng thành quách, đục ngòi
tưới tắm để lợi cho dân. Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc.
Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng
làm việc cũ của Mã tướng quân. Năm thứ 20 tức năm 44, mùa Thu, Viện thu quân
rút về kinh đô. Quân lính trải qua chướng dịch, mười người chết hết 4,5”. Trận
chiến ở Cửu Chân diễn ra ác liệt, tướng Đô Dương tử trận. Quận Cửu Chân theo
các sách sử Trung Quốc như Thủy Kinh Chú và Thái Bình Hoàn Vũ Ký thì “Ái Châu tức Cửu Chân, phía Nam giáp quận
Nhât Nam, phía Tây giáp quận Tường Kha, phía Bắc giáp Ba Thục, phía Đông giáp Uất
Lâm” gồm một phần của tỉnh Vân Nam, một phần của tỉnh Quảng Tây TQ bây giờ
chứ không phải vùng Thanh Nghệ như sử sách chép từ trước đến giờ…
Theo Hán sử thì Mã Viện bắt hơn 300 Cừ Soái giải về Linh Lăng. Các thủ lĩnh
còn lại biết không chống nổi trước thế giặc hung hãn nên rút dần về phương Nam
để tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Hán xâm lược. Hậu Hán thư
chép như thế trong khi “Nam Việt chí” của Thẩm Hoài Viễn lại chép là: “Trưng Trắc chạy vào miền trong thác Kim Khê,
hai năm sau mới bắt được”. Sách “Việt Chí” cũng chép là Kim Khê ở phía Tây
Nam huyện Mê Linh, như vậy thuộc Trường Sa, Hồ Nam TQ trong khi sách Thuỷ Kinh
chú lại chép là Cấm Khê.
Hậu Hán Thư chép là Mã Viện tâu lên vua Hán là Lĩnh Nam đã bình định.
Như vậy là vùng Lĩnh Nam tức phiá Nam rặng núi Ngũ Lĩnh ở bên Trung Quốc chứ
không phải ở phần lãnh thổ Việt Nam sau này như các sử gia thời trước đã hiểu
sai. Đặc biệt “Viện điều tấu Việt luật
cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước
thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân”. Điều này chứng
tỏ nước ta lúc đó còn độc lập tự chủ và xã hội Việt đã văn minh đã thể chế hóa
luật Việt hẳn hòi chứ không phải “Man Di mọi rợ” như Hán sử bôi bác xuyên tạc,
đồng thời chính Mã Viện phải thương lượng tôn trọng phong tục tập quán cũ của
người Việt mà sách sử chép là “cùng người
Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc, sau đó “Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân !!!”.
Thông sử dân gian được chép trong “Thiên Nam Ngữ lục” thì Hai Bà Trưng
rút xuống vùng Vân Nam và lập căn cứ ở nước Nam Chiếu. Về sau Hai Bà bệnh mà chết.
Con cháu và các Lạc Hầu Lạc Tướng dẫn dân quân lui xuống phương Nam tiếp tục mở
đất từ Tứ Xuyên xuống Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ rồi tràn xuống phương Nam
dọc theo dãy Trường Sơn thành lập các vương quốc Champa và Phù Nam sau này. Cũng
theo Thông sử dân gian thì sau khi quốc gia Nam Việt mất vào tay Hán tộc, con
cháu họ Triệu và quân dân Nam Việt theo đường biển từ La Phù, Hợp Phố, ra Chu
Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) rồi về tới Đồ Sơn. Tiếng địa phương của chi Âu Việt
gọi vua là “Chiếu” nên Nam Chiếu có thể hiểu là vua nước Nam. Họ xưng là dân nước
Nam Chiếu nên thực hiện chiếu chỉ của vua Nam chống Hán tộc, trong trận thuỷ
chiến họ đã giết được viên Thú lệnh của Hán triều. Một số khác trôi dạt ra đảo
Hải Nam mà sử sách xưa chép là Hán triều chia ra làm 2 quận Chu Nhai và Đạm Nhĩ.
Theo các công trình nghiên cứu thì dân địa phương trên đảo là người Việt
cổ chi tộc Lê nên gọi là Lạc Lê, ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng. Chính vì thế mà
quân dân Nam Việt dễ dàng hội nhập vì cùng một nguồn cội. Họ cùng nhau tiếp tục
kháng chiến chống quân Hán xâm lược nên năm 81 TDL, Hán triều phải bỏ Đạm Nhĩ rồi
đến năm 46 TDL, Hán triều lại phải bỏ Chu Nhai vì chịu thiệt hại nặng nề. Hán sử
chép lại sự kiện phải bỏ đảo Hải Nam bằng cách bao biện cho việc rút quân của
chúng một cách khôi hài láo xược. Giả Quyên Chi tâu lên vua xin bỏ cuộc chinh
phục vì “ dân Lạc Việt ở Chu Nhai vốn còn
man rợ, không khác loài cầm thú, cha con tắm cùng sông, quen uống nước bằng mũi
nên không đáng để đặt đất này thành quận huyện ..!”. (6)
Thần tích làng Hạ Lôi ở Cẩm Khê Mê Linh chép là Bà Trưng Nhị tử trận còn
Trưng Trắc chạy lên núi My Sơn rồi hoá. Tương truyền Hai Bà xây thành giống tổ
kén nên gọi là Kiển thành ở vùng Tư Minh, Vân Nam Trung Quốc bây giờ. Theo
thông sử dân gian truyền tụng thì ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão tức năm 43,
sau khi dốc toàn lực quyết chiến với quân thù, hai Bà sức cùng lực tận đã gieo
mình xuống dòng sông Hát (Hát Giang) tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết của bậc anh
thư nước Việt. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca chép:
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế phải liều với sông
..!
Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” gọi sông Hát là sông Chu Diên và “Dư Địa
chí” của Nguyễn Trãi cũng chép:“Ở sông
Hát có cá Anh Vũ bơi lội tới sông Giang Hán (Dương Tử giang và Hán thuỷ) vì cây
Chiên Đàn ở sông Hát cao cả nghìn trượng, rễ lâu năm, gốc dài bám liền tới sông
Trường Giang (Dương Tử giang) và sông Hán. Cá Anh Vũ bơi lội thông thương trong
hốc đất vì thế ở Hoàng Hạc Lâu có Anh Vũ châu …”. Như vậy, sông Hát ở đây
là ở hạ lưu sông Dương Tử khác với sông
Hát sau này ở Bắc Việt nay là Ngã ba Hạc, mà theo tương truyền cá Anh Vũ cũng
có tại Hoa Lư là gốc rễ Chiên Đàn nói trong truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam
Trích quái.
SỐ PHẬN MÃ VIỆN VÀ
CỘT ĐỒNG HUYỀNTHOẠI
Mã Viện không chỉ là một danh tướng Hán chuyên đem quân đi xâm lược để
bành trướng đế chế Đại Hán, mà y còn là tên quan thống trị hết sức thâm độc. Để
dập tắt mầm mống chống đối, Mã Viện đã vô hiệu hoá mọi phương tiện truyền đạt
hiệu lệnh khởi nghĩa của các Lạc Hầu Lạc Tướng Việt, đồng thời triệt tiêu trống
đồng là vật biểu trưng cho nền văn minh
Việt và cũng là biểu tượng quyền uy của giới lãnh đạo thời Hùng Vương. Mã Viện
ra lệnh tịch thu tất cả trống đồng của Lạc Việt để đúc “ngựa thép” để dâng lên
vua Hán. Sách “Hậu Hán thư” chép: “Viện
ưa cưỡi ngựa hay có tiếng nên khi ở Giao Chỉ, lấy được trống đồng Lạc Việt bèn
đúc ngựa thép về dâng vua”. Vấn đề không đơn giản như Hậu Hán thư chép vì
trống đồng không chỉ là nhạc cụ truyền thống dùng trong các lễ hội mà trống đồng
còn là biểu tượng quyền uy tuyệt đối của các Lạc Hầu, Lạc Tướng thủ lĩnh quân
trưởng của địa phương nữa. Tiếng trống đồng là hiệu lệnh tập hợp của các thủ lĩnh
Quân trưởng Việt. Mỗi khi nghe tiếng trống, người người kéo đến như mây. Chính
vì vậy, việc làm của Mã Viện là chủ trương trước sau như một của đế chế Đại Hán
bành trướng từ Mã Viện đời Hán đến Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Âu Dương Ngụy đời
Lục triều và Lưu Hiển đời Minh. Thời nào Hán tộc cũng tìm cách tịch thu phá huỷ
trống đồng Việt cổ, tịch thu tiêu hủy toàn bộ sách sử của nước ta nhằm hủy diệt
mầm mống ý chí chống giặc thù của tộc Việt.
Tuy thắng được Hai Bà Trưng nhưng theo Hậu Hán thừ thì quân số đi mười
lúc về chết vì dịch bệnh chỉ còn bốn, năm. Hán thư chép xuyên tạc như vậy vì
cho rằng quân Hán chỉ chết vì dịch bệnh chứ không phải chết trận. Nếu tính cả số
thương vong thì lúc về chỉ còn 1,2 là nhiều chứ đừng nói tới việc để lại bọn mà
sách sử Hán gọi là “Mã lưu”. Trước tình trạng quân Hán ngày một chết nhiều vì
thương vong và dịch bệnh khiến giặc bị tiêu hao thiệt hại nặng nề nên Mã Viện nại
cớ “Thuỷ thổ Giao Chỉ hơi độc bốc lên đến
nỗi chim đang bay trên trời cũng phải rũ cánh sa xuống đất mà chết …” để
rút quân về. Nhận được sớ của Mã Viện, năm 44 vua Hán hạ chiếu cho Viện rút
quân về. Trước khi về nước, Mã Viện cho dựng một cột trụ bằng đồng làm ranh giới
cuối cùng Hán Việt. Trên trụ đồng, Mã Viện cho khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao
Chỉ diệt” như để răn đe là nếu cột trụ đổ thì Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt.
Sách sử cổ TQ chép về “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” không rõ ràng.
Theo Đào Duy Anh thì Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện không hề đề cập tới việc Mã Viện
dựng cột đồng. Sách Hậu Hán ký cũng không nói gì đến việc này. Phải đến cuốn
Ngô lục của Trương Bột viết vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên mới có chép đến cột
đồng, nhưng tại vùng Quảng Nam của ta hiện nay chứ không phải bên châu Khâm.
Theo “Man thư” (7) đời Đường thì vị trí của cột đồng Mã Viện tại huyện
An Ninh tỉnh Vân Nam trong khi Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống chép
cột đồng đặt tại động Cổ Sâm thuộc Khâm châu. Nhà
bác học Lê Quí Đôn trong “Vân Đài Loại ngữ” đã viết: “Gọi là phân mao cỏ rẽ vì núi cỏ mọc rẽ làm hai, phía Tây Phân Mao lĩnh
là Khâm Châu (Trung Quốc), lưng chừng có cột đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ là
cột đồng do Mã Thống đời Đường dựng mà tương truyền đây là cột trụ đồng của Mã
Viện”. Sở dĩ Lê Quí Đôn viết có lẽ là vì sách sử đã bị giặc Tàu đốt phá hết
nên không còn căn cứ, vả lại nhà bác học chắc chắn đã đọc các sách sử Tàu nói về
cột đồng rồi nhưng ông vẫn đặt bút viết như vậy vì cột đồng không có thật và chỉ
là tương truyền mà thôi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên trong bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” đã viết về cột trụ
đồng như sau: “Mã Viện đuổi theo đánh các
tàn quân là Bà Đô Dương. Tới huyện Cư Phong tất thảy đầu hàng. Viện bèn lập trụ
đồng ghi bờ cõi tận cùng của Hán. Đồng trụ tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc
Khâm Châu. Viện có lời nguyền rằng “Đồng trụ bị gãy thì Giao Châu sẽ bị diệt”.
Người nước ta đi qua bên dưới thường lấy đá đắp thêm vào, sau thành ngọn núi. Ấy
là vì sợ nó gãy! Mã Thống An Nam Đô hộ đời Đường lại dựng hai đồng trụ ở chỗ cũ
đời Hán, ghi công đức Mã Viện để tỏ mình là dòng dõi Phục Ba”.(8)
Cho đến nay một số sách sử vẫn chép là có trụ đồng ở Phân Mao Lĩnh do Mã
Viện trồng ở động Cổ Lâu thuộc Hồ Nam, phía Tây Phân Mao lĩnh thuộc Khâm Châu.
Năm 751, viên quan Đô hộ Hà Lý Quang sau khi đánh Nam Chiếu ở Vân Nam đã dựng lại
cột đồng ở chỗ cũ.. Sách sử xưa
chép rằng Giao Chỉ thời Chu là Lạc Việt nước Sở vì theo Hậu Hán thư thì khi triều
Chu suy, Sở hùng cường xưng Bá thì Bách Việt triều cống Sở nên thời kỳ này
không thấy sử sách nhắc gì tời Giao Chỉ là như vậy. Giao Chỉ cuối thời Chiến quốc
ở phía Nam nước Sở, đến thời Tần năm 214 TDL, Tần cướp đất Dương Việt lập ra 3
quận Quế Lâm (gồm phía Bắc và Đông Việt Tây tức Quảng Tây, Nam Hải (nguyên là
Việt Đông sau này đổi là Quảng Đông và Tượng quận là vùng đất gồm phía Tây Việt
Tây và Nam Quí Châu. Đến thời Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt thì quận Cửu Chân
là vùng đệ tam lĩnh của Ngũ Lĩnh là dãy Đô Bàng ở Cửu Chân. Sang đến thời Tây
Hán thì Bách Việt làm chủ lại địa bàn cư trú xưa cũ, Hán sử chép rằng mãi đến
năm 29 thời Đông Hán thì các quan châu mục mới sai sứ sang cống, điều này có
nghĩa là Hán triều chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. Năm 43, sau khi thắng
Hai Bà thì Mã Viện nếu có dựng trụ đồng thì chỉ dựng ở biên giới cực Nam của
Trung quốc ở động Cổ Lâu phía Tây Phân Mao Lĩnh thì biên giới phía Nam Trung quốc
mới tới vùng này là Hồ Nam. Chính vì vậy dân gian mới đặt tên là Phân Mao Lĩnh,
nơi cỏ mọc rẽ sang hướng Bắc và rẽ sang phương Nam như một biên giới tự nhiên
là như vậy.
Một sự thật là các sử quan Hán tộc không phải là không phải là không
phân biệt giữa khái niệm địa danh mà họ cố tình mập mờ đánh lận con đen, đem
tên vùng này đặt cho vùng khác để xoá nhoà ký ức dân tộc về nước Việt Thường,
Xích Qui rồi Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Chính vì vậy các sử gia nước ta từ
trước đến nay bị sa vào trận địa hoả mù của Hán tộc. Họ cứ cho rằng cột trụ đồng
ở biên giới phía Nam của Lâm Ấp về sau này. Thực ra Lâm Ấp là tên của một chi tộc
Việt bao gồm Lâm + Ấp + Môn + Điền (Việt) ở Nam Trung Quốc (Hoa Nam). Chi tộc
này về sau xuôi Nam thành lập vương quốc Lin-Y phiên âm sang Hán Việt là Lâm Ấp
trải dài từ rặng núi Hoa sơn ở Việt Tây dọc theo Trường Sơn đổ xuống Nam tới tận
ven biển Trung Việt. Chính sách “Khâm Định Việt sử” của triều Nguyễn chép rõ
là: “Lâm Ấp xưa thuộc nước Việt Thường,
trải qua thời kỳ Tần xâm lược thì có tên là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận là phần
đất giữa Vân Nam, Quí Châu và Quảng Tây. Đến đời Hán mới đặt tên cho vùng Hà Tĩnh
là huyện Tượng Lâm thuộc quân Nhật Nam. Khi Khu Liên khởi nghĩa thành công mới
đặt tên nước là Lâm Ấp. Về sau, Phạm Hùng là dòng họ ngoại làm vua truyền tiếp
nhiều đời. Lâm Ấp còn có những tên khác như Hồ Tôn, Hoàn Vương, Chiêm Thành”.
Một sự thật cần phải ghi nhận là sách “Hậu Hán Thư”, bộ sử chính thức của Hán tộc
không chép gì về cột đồng Mã Viện. Hậu Hán Thư trong chương nói về tiểu sử của
Mã Viện không hề nhắc đến việc Mã Viện cho dựng những cây trụ đồng ở nước ta. Sự
thật lịch sử này đã góp phần làm sáng tỏ cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng xảy
ra ở Hoa Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như chúng ta hiểu từ trước
tới nay.
Mãi đến thế kỷ thứ tư, một loạt sách sử Trung Quốc chép gần giống nhau
như sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường viết: “Phía Nam Lâm Ấp đường thuỷ đường bộ qua 2 nghìn dặm đến Tây Đồ Di là
nơi Mã Viện đặt đồng trụ để nêu bờ cõi”. Sách “Tân Đường thư” cũng chép: “Lâm Ấp có châu Bôn Đà Lăng. Bãi lớn phía Nam
có 5 đồng trụ do Mã Viện đời Hán trồng. Hình núi như chiếc tàn nghiêng. Phía
Tây là là mấy trùng núi, phía Đông là biển cả”. Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” chép: “Mã Viện đánh Lâm Ấp. Từ Nhật Nam đi hơn bốn
trăm dặm có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy lập 2 đồng trụ ở chỗ biên giới Tượng
Lâm giáp với Tây Đồ Di. Đường thủy thì đi từ Nam Hải hơn 3 nghìn dặm tới Lâm Ấp,
năm nghìn dặm tới đồng trụ của Giao Châu”. Lịch Đạo Nguyên là một người đã
từng làm quan ở nước ta đã biết rõ là trụ đồng không có thật nên tác giả Thủy
Kinh Chú viết là “Núi sông dời đổi. Đồng trụ đã chìm vào sông biển ..!”. Đây là một sự
hư cấu phục vụ cho chủ trương xâm lược bành trướng của “Đại Hán” mà thôi vì nếu
cột đồng Mã Viện có thật thì nó phải ở Khâm Châu vì vào thời điểm đó, bên giới
phía Nam của Trung Quốc chỉ tới đó. Sau này, vị trí của cột đồng Mã Viện được
sách sử Trung Quốc dời về cực Nam theo thời gian để phù hợp với sử quan Hán tộc.
Nhà Hán học nổi tiếng Henri Maspéro trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của
Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng Mã Viện mà cũng chẳng có lời phủ
nhận về sự hiện hữu của chúng. Trên thực tế, vấn đề cột đồng được Trung Quốc sử
dụng như một vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Quốc muốn tạo cớ để xâm lấn hay
xách nhiễu. Nó được viện dẫn như một cái cớ về việc tranh giành đất đai và
“khôi phục” lãnh thổ cũ đời Hán xâm lấn.(9) Cho đến ngày nay, dân gian Việt vẫn xem cột đồng
như có thật cũng như thi vị hoá truyện danh tướng Thi bị quân giặc giết chết
nên Trưng Trắc phải trả thù chồng. Khi thế cùng lực tận, Bà Trưng đã nhảy xuống
dòng sông Hát để đền nợ nước nên hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống
mãi trong lòng dân tộc.
Chính Hán sử còn ghi rõ là trong ngày vui chiến thắng của quân Hán, mùa
xuân năm 43 chính viên danh tướng này hú hồn vừa thoát chết trở về đã ngao ngán thốt lên rằng: “Tùng đệ ta là Thiếu Du thương ta khẳng khái
nhiều chí lớn, thường nói với ta là Kẻ sĩ sống một đời chỉ mong áo cơm vừa đủ,
cỡi xe qua trằm đi ngưa nước kiệu, làm Duyên Lại quận, giữ mồ
mả, làng xóm khen là người tốt. Đó là được rồi, chứ mong cầu dư dả, chỉ tự mình
làm khổ mình thôi ..! Khi ta còn ở vùng Lãng Bạc Tây Lý, giặc chưa diệt xong,
dưới lầy trên mù, khí độc ngun ngút, ngửng trông diều bay, sà sà rơi xuống nước.
Nằm nghĩ lại lời của Thiếu Du lúc bình sinh sao mà thấy đúng quá ! Nay nhờ sức
Sỹ Đại phu, được ban ơn lớn, đứng trước các ông, giữ ấn vàng mang đai tía, lòng
không khỏi vừa mừng vừa thẹn ..!”. Trước khi xuất quân, Mã Viện biết rằng đi đánh Giao Chỉ là việc hiểm nguy
không biết sống chết ra sao
nhưng may mắn lại thắng trận trở về. Bà con họ hàng ra nghênh đón trong đó có
người tên là Hư Ký ca tụng và ủy lạo công lao cực khổ của Mã Viện, thì viên tướng
này lại giương giương tự đắc nói rằng “Làm
trai nên chết ở chiến trường, da ngựa bọc thây, đem về quê chôn cất, chứ ai lại
ngủ chết trên giuờng để cho con cái đem chôn”. (10)
Về đến kinh đô còn chưa kịp hoàn hồn sau mấy năm trời chinh chiến thì 7
năm sau lại nhận được lệnh đi đánh dẹp “Mọi Năm khe” là vùng đất bộ lạc người Mèo (Chi Hmong-Mien của Bách Việt) là Tương Tây và
Nguyên Lăng thì tinh thần đã suy xụp, sức khỏe suy kiệt rồi lâm trọng bệnh
mà chết trên đường hành quân. Sau khi chết, Mã Viện lại bị buộc tội là phải chịu
trách nhiệm vì không có khả năng chống
lại bệnh dịch hoành hành truyền nhiễm khiến quân sĩ chết
rất nhiều vì Mã Viện ra lệnh hành quân
chống lại các bộ lạc Ô Hoàn và quan trọng hơn là đã chở ngọc trai
và sừng tê giác về nhà mà không trình lên triều đình. Vua Hán Quang Vũ đã tin vào các cáo buộc này và đã tước đi thái ấp cũng như tước hầu
của Mã Viện. Vợ con không dám đem thi
hài đi chôn, bạn bè thân thuộc cũng không dám đi cúng điếu! Về sau, Hán Chương Đế mới truy tặng ông tước Trung Thành hầu
(11)
Tự ngàn xưa và mãi
mãi ngàn sau, Việt tộc vẫn tự hào về chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng, bậc
anh thư Liệt nữ của nước Việt. Hai Bà đã chiến đấu kiên cường để tiếp nối nghiệp
xưa của vua Hùng, kéo dài thêm thời kỳ tự chủ của dân tộc ta thêm được 4 năm nữa
để rồi Việt tộc bước vào thời kỳ vong quốc. Với niềm tự hào dân tộc, không một
người Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng trang sử oanh liệt của Hai Bà Trưng
được ghi trong “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” ngay từ thời tấm bé:
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận quân hung bạo thù chồng chẳng quên …
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ Nương tử thay quyền tướng quân …
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm
binh mã tới gần Long Biên …
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên
thuỳ …
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình
nước ta ..!
Hai Bà Trưng được nhân dân cả nước sùng kính tôn thờ trên khắp các tỉnh
thành. Hiện ở xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây và nhiều nơi khác lập đền
thờ Hai Bà. Nhân dân các tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú còn lập đền thờ 35 vị nữ tướng
đã cùng Hai Bà lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Ngày mồng 6
tháng 2 hàng năm, nhân dân khắp nơi đổ về dự lễ hội Hai bà đông như trẩy hội.
Không những đồng bào trong nước mà cả những đồng bào người Trung Quốc gốc Việt ở
Hoa Nam, mặc dù đã bị Hán tộc thống trị cả ngàn năm vẫn còn giữ nhiều truyền
thuyết về tiền nhân đã tham dự cuộc khởi nghĩa của Hai bà. Hiện ở vùng Ngũ Lĩnh
gần hồ Động Đình vẫn còn địa danh “Động phủ Trưng Trắc” và ở Phiên Ngung, thủ
đô của nước Nam Việt cũng có đền thờ Đức Trưng Nữ Vương cùng với những đền thờ,
miếu thờ các anh hùng liệt nữ đã vì nước hy sinh. Nhân dân các tỉnh vùng Hoa
Nam Trung quốc vẫn tôn kính thờ phượng vị anh thư liệt nữ Trưng Trắc mãi tới
ngày nay như một tín ngưỡng dân gian gọi là đạo thờ “Vua Bà”.(12) Ngô
Thì Nhậm khi đi sứ sang Tàu đã ngậm ngùi xúc động trước tinh thần cao cả của đồng
bào ta tại Trung nguyên, dù bị thống trị cả mấy ngàn năm tuy buộc phải giống
như người Hán “đồng” nhưng vẫn không bao giờ “hoá” thành người Tàu được. Đứng
trước Động phủ Trưng Trắc ở hồ Động Đình, Ngô Thời Nhậm đã cảm khái:
Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ,
Uý Đà mọt quế động hang sâu …
Đặng
Minh Khiêm, cháu 4 đời của Đặng Dung là một nho sĩ yêu nước vào thế kỷ XV đã
tôn vinh bậc Nữ lưu của dân tộc qua bốn câu thơ bất hủ:
Vương hầu văn võ
thảy đều Hùng,
Mười tám chi vua
hiệu vẫn chung …
Đời trải hơn nghìn
con cháu tiếp,
Trưng Vương còn giữ
nếp Tiên Rồng ..!
Lịch sử danh nhân Việt Nam nói riêng và cả
nhân loại nói chung, không có bậc nữ lưu nào có thể sánh ngang với Hai Bà
Trưng. Lời hịch xuất quân của Bà Trưng gần 2 ngàn năm về trước đã thể hiện cao
độ lòng yêu nước thương nòi kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của tiền
nhân cùng với tình thuỷ chung chồng vợ của đạo lý Việt Nam được dân gian thi vị
hóa:
Một xin rửa sạch
thù nhà,
Hai xin nối lại
nghiệp xưa vua Hùng …
Ba kẻo oan ức
lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này ..!
Sử gia Lê văn Hưu đời Trần trong “Đại Việt Sử
ký” chép: “Trưng Trắc Trưng Nhị là phụ nữ,
hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm thành trì ở
Lĩnh ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết
là hình thế đất Việt ta có thể dựng cơ nghiệp Bá vương ! Tiếc thay trong khoảng
hơn nghìn năm từ sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, bọn đàn ông con trai đành
chỉ cúi đầu, bó tay làm tôi tớ cho Tàu chẳng hề xấu hổ với Hai Bà Trưng là phận
nữ nhi .. Thương ôi ..!”.
Từ nợ nước đến thù nhà, biểu trưng tuyệt vời của lòng yêu nước hòa quyện
với tiết nghĩa thủy chung của người phụ nữ Việt Nam đã được nữ sĩ Ngân Giang diễn
tả qua tâm trạng của Trưng Trắc:
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa,
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi …
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi ..!
Sau khi Hán tộc xâm lược, Nam Việt tiêu vong
năm 111 TDL và sau khi Hai Bà Trưng thất bại năm 43, một lần nữa quân dân Nam
Việt phải rời bỏ Giao Chỉ bộ là phần đất cuối cùng ở Hoa Nam để xuống phương
Nam. Các chi tộc trong Bách Việt ở Hoa Nam đã hội nhập với cộng đồng Bách Việt
định cư từ lâu trên phần đất Việt Nam hiện nay. Tất cả đã tạo thành một sức mạnh
tổng lực như một bức tường thành bất khả xâm phạm ngăn chặn Hán tộc xâm lược để
Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.
Với lòng yêu nước
thương nòi và tấm lòng trung trinh tiết liệt thanh cao vời vợi của người phụ nữ
Việt Nam, Hai Bà đã biểu trưng cho khí phách anh hùng của bậc nữ lưu. Giá trị
tinh thần này không chỉ riêng cho Việt Nam mà còn là di sản văn hoá của cả nhân
loại nữa.
HAI BÀ TRƯNG
ĐÁNH ĐUỔI GIẶC HÁN
Đền Thờ HAI BÀ TRƯNG ở Huyện Mê Linh tỉnhVĩnh Phúc
CHÚ THÍCH.
1. Sự thật lịch sử này đánh tan luận điệu
tuyên truyền của Hán tộc là Bà Trưng khởi nghĩa vì Thaí thú Tô Định tham lam
tàn bạo và vì thù chồng mới nổi lên chống Hán. Chính lòng yêu nước đã thúc đẩy
hai vợ chồng Trưng Trắc đứng lên giết giặc cứu nước, sau khi chồng bà bị giết
thì thêm mối thù nhà để “vua Bà” làm nên lịch sử và cũng từ đó ý niệm “nước mất
nhà tan, nợ nước thù nhà” thấm đậm trong ngôn ngữ văn chương dân gian Việt. Đọc
lại đoạn sử xưa chúng ta không khỏi ngậm ngùi xen lẫn phần hãnh diện vì không
có dân tộc nào gắn liền lòng yêu nước với tình thương nòi giống như dân tộc Việt.
Trải dài suốt dòng lịch sử, trước một kẻ thù Hán tộc xâm lược tàn bạo gây bao cảnh
tang tóc thương đau cho dân Việt nên hơn bất cứ dân tộc nào khác, người dân Việt
thấm thía cảnh “Nước mất nhà tan ..!” để từ đó ý niệm quốc gia là nước nhà hình
thành hòa quyện làm một “Gene yêu nước” truyền thống Việt tự xa xưa.
Từ trước đến nay, sử sách Việt đều ghi là Thi Sách duy chi có sách Thủy
Kinh Chú chép chỉ chép là Thi. Theo công trình nghiên cứu gần đây thì nguyên đoạn
văn chép trong Hậu Hán thư như sau: “Chu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê
Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê, Trắc vi nhân hữu đảm dũng tương Thi
khí tặc, Mã Viện tương binh phạt, Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê”. Sách chữ Hán
không có chấm phết, nên chữ sách có nghĩa là hỏi (vợ). Nếu sách là tên riêng
như Trắc thì câu sau phải viết là: ..Trắc Sách tẩu nhập Kim Khê, vì không lẽ
tên riêng cho vợ (Trắc) rồi lại viết họ Thi của chồng thì hoàn toàn không ổn.
Do đó, chồng của Trưng Trắc là Thi mới đúng chứ không phải là Thi Sách như sách
sử vẫn viết từ trước đến giờ.
2. Hậu Hán thư chép: “Năm đầu hiệu Kiến Vũ, Nhâm Diên được triệu
làm Thái thú Cửu Chân. Tục Cửu Chân không biết cày cấy, thường đong thóc ở Giao
Chỉ và thường bị túng thiếu. Diên bèn sai đúc các đồ làm ruộng, dạy cho khai khẩn.
Mỗi năm ruộng mở rộng thêm, trăm họ được no đủ. Dân Lạc Việt lại không có lễ
phép cưới hỏi, không có giá thú, dâm háo, không rước đón mà vẫn đến với nhau.
Không biết tình cha con, đạo vợ chồng. Diên bèn gửi thư đến các thuộc huyện,
khiến trai từ 20 đến 50, gái từ 15 đến 40 đều lấy tuổi mình mà lấy nhau. Kẻ
nghèo không có lễ rước thì ra lệnh cho Trưởng Lại trở xuống, mỗi người bớt bổng
lộc để giúp đỡ họ. Lấy nhau cùng một lúc là hơn 2 ngàn người. Năm ấy mưa thuận
gió hòa, lúa đậu được mùa. Họ sinh con mới biết dòng giống họ hàng, đều nói
“Khiến ta có con này đều do Nhâm quân nên phần nhiều đặt tên con là Nhâm. Do thế,
mọi rợ ngoài biên Dạ Lang mộ nghĩa giữ ải. Diên bèn ngưng bỏ do thám đóng
quân…”.
Đọc lại những gì mà Hậu Hán thư chép chúng ta thấy rõ hơn về cái gọi là
Hán sử là chính sử (sic) mà các sử gia từ trước tới nay cứ sao chép một cách vô
thức. Trước hết, theo Hậu Hán Thư thì Nhâm Diên mới được cử làm Thái thú Cửu
Chân năm 29, nếu Nhâm Diên có nhiều công trạng như vậy thì tại sao đến năm 32
triều đình lại bãi chức Thái Thú của y. Những gì Hậu Hán Thư viết bôi bác xuyên
tạc về dân Lạc Việt là man di mọi rợ chính là để biện minh cho chủ trương khai
hoá của “thiên triều Đại Hán” văn minh tiến bộ trong khi chính Hán Hiến Đế
(190-220) đã tuyên dương Giao Chỉ như sau: “Giao
Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan,
nhân tài kiệt xuất”. Trước đây, chúng ta cho là Nhâm Diên làm Thái thú Cửu
Chân là phần đất Thanh nghệ VN nhưng chính Hậu Hán Thư đã xác nhận sự thật lịch
sử là Cửu Chân lúc đó còn nằm ở phần đất Dạ Lang cao nguyên Quí Châu Ba Thục.
Khảo cổ học đã tìm được những lưỡi cày đồng ở phần đất Thanh Hóa Nghệ An thuộc
quận Cửu Chân sau này, di chỉ khảo cổ trên chứng tỏ người Cửu Chân đã biết cày
cấy từ lâu chứ không phải nhờ Nhâm Diên mới biết cày bừa.
3. Đại Nam Quốc sử Diễn ca của Phạm
đình Toái và Lê Ngô Cát xác định Mê Linh ở Trường Sa, Hồ Nam nên mới viết là Lĩnh
Nam là từ rặng Ngũ Lĩnh trở về Namphía Nam sông Dương Tử tức là vùng Hoa Nam.
Như vậy cuộc kháng chiến diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc. Quê
hương của Bà Trưng ở Hồ Nam nguyên là phần đất của nước Văn Lang xưa. Mười tám
chi Hùng Vương truyền thừa đến An Dương Vương lập nước Âu Lạc rồi tới Triệu Đà
lập nước Nam Việt. Sau khi Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt năm 111 TDL, mặc dù đã
chia quận huyện trên giấy tờ nhưng đến thời hai Bà Trưng phần đất này, Hán tộc
vẫn chưa kiểm soát được. Đặc biệt là thời đại Hùng Vương đã được chính sử gia
chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên ghi rõ trong bộ Sử Ký. Sự thật lịch sử
này đã đượcWilliam Watson trong tác phẩm "Cultural Frontiers in Ancient
East Asia" viết về những đồ vật đào lên tại Liu-ch'êng-ch'iao Trường Sa
thuộc tỉnh Hồ Nam trong đó có một cái qua (cây dáo)” còn nguyên vẹn có khắc tên
một vị vua tên là Nhược Ngao. Sử Ký Tư
Mã Thiên và Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị
vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước
Tây Lịch. Điều này chứng tỏ thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử và sự
kiện lịch sử Hai Bà Trưng chống quân Hán xâm lược để khôi phục cơ đồ họ Hùng là
một sự thật lịch sử.
4. Tại vùng Hồ Động Đình và thủ phủ Trường
Sa của tỉnh Hồ Nam, cho đến ngày nay người dân địa phương vẫn còn nhắc nhở trận
đánh lẫy lừng của Nữ tướng Phật Nguyệt và đền thờ Ngài. Ngay cửa Thẩm Giang chảy
vào Hồ Động Đình, còn miếu thờ Nữ tướng Trần Thiếu Lan, và cả ngàn năm qua, cứ
mỗi lần sứ thần nước ta đi ngang qua là đều vào tế lễ Ngài. Hiện nay cũng còn
có ngôi mộ tên Ngài. Ngoài ra còn có nhiều di tích của các trận đánh lớn, như
trận chiếm giữ thủ phủ Trường Sa của Hồ Nam; trận đánh kinh hồn của Nữ tướng Phật
Nguyệt đã chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ở Hồ Động Đình; trận thủy chiến
lẫy lừng của Nữ tướng Trần Quốc ở Uất Lâm; trận đánh thần kỳ của Vĩnh Hoa Công
Chúa, dẹp tan Đại tướng giặc Ngô Hán ở Độ Khẩu, Vân Nam, Khúc Giang, Hải Nam… Tất
cả đều chứng tỏ binh lực của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh
Nam, và đã có lúc Đức Trưng Nữ Vương xưng danh Hoàng Đế toàn thể Lĩnh Nam.
5. Hiện ở ngã ba sông Ô giang và Trường
giang có bến Bồ Lăng, ở đó có miếu thờ 3 vị thần họ Đào. Ngay trước miếu có đôi
câu đối ca tụng công lao của 3 vị tướng họ Đào đã khẳng khái theo phò vua Bà,
dù không đánh đuổi được quân thù nhưng thời của “Người” không lâu nên đau lòng
phải tự tận, khí tiết thanh cao vút chín tầng mây: “Khẳng khái phò Trưng thời bất lợi, Đoạn trường trục Định tiết can vân !”.
Bên trong miếu thờ có đôi câu đối: “Giang
thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ Lăng Bách tộc khấp trung thần ..!”Sông Trường giang, tam anh phò nữ chúa
Bến Bồ Lăng trăm họ khóc trung thần ..!
6. Hải Nam: Diện tích 33.940 km2, dân số 7.870.000 người tromh đó có thổ
dân sắc tộc Lý (1 triệu người), Miêu 50 ngàn ngườiKhu Tự trị ở miền Trung và miền
Nam của đảo gồm 5 quận dành cho người Lý, 2 quận chung cho người Lý và Miêu, 4
thị trấn của người họ Lý, 1 Thị trấn chung cho người Lý và Miêu. Vũ hữu San Sđd
tr 70. Đại Việt Sử lược đã bị Tiền Hy Tộ sửa đổi chép: “Đời Linh Đế nhà Đông Hán 184, người trong
châu họp binh đánh Thứ sử. Vua Linh Đế dùng Giả Tôn làm thứ sử. Giả Tôn đến vỗ
về hoà hợp được lòng người, cõi Giao Châu trở về yên ổn. Trăm họ ca ngợi rằng:
Cha Giả đến muộn màng, khiến ta trước đánh càn. Thanh bình nay đã thấy, nào dám
phản cho đang !?” Trong lịch sử chẳng có tên thái thú nào mà chẳng tàn bạo
tham lam bóc lột dân ta và dĩ nhiên, chẳng bao giờ dân bị trị lại đi ca tụng một
tên Thái thú cai trị là “cha”!!! Đây chỉ là sự bịa đặt của những tên Thái thú để
tự tâng bốc công trạng của họ với triều đình cũng như các sử gia chính thống
Hán tộc thêm thắt tô điểm cho “Thiên triều” mà thôi. Lời tâu của Giả Quyên Chi
là luận điệu của các tên Thứ Sử, Thái Thú của Hán tộc xâm lược tự nhận là văn
minh nên miệt thị dân ta “người dân như
cầm thú, đời sống xã hội không biết lớn nhỏ … không có lễ phép cưới hỏi, nền
kinh tế không biết cày bừa, lấy săn bắn làm nghề sinh sống”. Mặt khác, nó
biểu lộ một thái độ hằn học trước sự chống cự ngoan cường của một dân tộc khát
khao tự do đối với Đại Hán bành trướng.
7. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ,
q. III, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, 1944 chép là dân ta đi ngang
ném đá vào vì sợ cột đồng gãy chỉ đúng phần nào vì sợ lời nguyền “Giao Chỉ diệt!”
nhưng mặt khác đó chính là biểu lộ lòng yêu nước muốn ném đá vào để lấp đi cái
chứng tích của Mã Viện nên ngày nay không còn dấu vết của cột đồng nữa.
8. Man Thư là sách sử của người Man.
Trước đây chúng ta cho rằng Hán tộc gọi tộc Việt là Man, man di mọi rợ nhưng
công trình nghiên cứu của nhà ngôn ngữ Nguyễn Hy Vọng trích dẫn sách La
Civilization de los Origenenes Los hombres de la historia. BuenosAires, Abril
de 1977/ Centro editor de Am érica Latina, SA/ Junin 981-Bunos Aires cho chúng
ta biết rằng hai chữ Vạn An là phiên âm của Mạn An (người Man). Điều này cho thấy
chữ Man là danh từ riêng nên không thể hiểu theo chữ Tàu là man di mọi rợ được.
9. Henri Maspéro: tập XVIII, số 3 năm
1918 của tập san Bulletin de l'EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ),Cuối đời Mã Viện
còn ảnh hưởng do “con ngựa thép” mà họ Mã tịch thu trống đồng Lạc Việt để đúc
dâng vua Hán. Sử sách Trung Quốc chép rằng: “ Trên đường hành quân trời nắng nóng nên Mã Viện chi đi chậm rãi để dưỡng
sức, lại bị 2 Phò mã là Lương Tùng và Đậu Cố và phó tướng Mã Vũ trình lên vua
Hán là cố ý hành quân chậm chạp và khi đi đánh Giao Chỉ về đem theo vàng bạc
nhưng giấu vua chỉ dâng vua một con ngựa thép mà thôi nên bị Hán Quang Vũ cho thu hồi ấn tín và không cho
chôn cất...Vợ Viện lấy rơm buộc 2 con trai và 3 gái đến xin vua gia ân cho được
chôn cất. Mãi đến lần thứ 6, vua mới đồng ý để nghe trình bày nỗi oan. Vua cho
người đến khám xét nhà chỉ thấy xe đầy ý dĩ (bo bo) để Mã Viện chữa phong thấp
mà thôi. Hán Quang Vũ biết Mã Viện bị oan nhưng vẫn không trả lại ấn tín và cũng
không cho ghi vào bảng phong thần 28 anh hùng hảo Hán…!. Cuộc đời Mã Viện
xét cho cùng thật là thấm thía làm sao ..!?
10. Hán tộc du mục lấy làm hãnh diện về
câu nói này nên mới cổ vũ cho cái chết ngoài chiến trường của Nam tử Hán là “Da
ngựa bọc thây”. Thanh niên Việt sẵn sàng hy sinh để bảo vệ giang sơn gấm vóc
nên xem cái chết nhẹ như lông Hồng là con chim Hồng Hạc. Dân gian thường phân
biệt hình ảnh của con ngựa chiến của tộc người du mục phương Bắc và vật biểu
Chim của phương Nam để nói lên sự khác biệt giữa cư dân nông nghiệp và dân du mục
Hán: “Việt điểu sào Nam chi, Hồ mã tê Bắc phong” nghĩa là con chim Việt thì đậu
cành Nam còn con ngựa Hồ thường hí đón gió Bắc 11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã
Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch
quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong
đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt
ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng
khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành.
Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng
trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN.
11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị
gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân
sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn
xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ
là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh
dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ
là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền
nam Trung Quốc và miền Bắc VN.
12. Theo tài
liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại
biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống
DNA”(1) (vietnamsante.com). Tại Khúc Giang (Quảng Đông) hiện nay còn
đền thờ Nữ tướng của Đức Trưng Nữ Vương, là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Công
Chúa. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của Bà với
quân Mã Viện. Ngoài ra, còn có đền thờ Nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam
Hải Công Chúa. Bà tuẫn quốc tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39 dl. Sử Việt
có ghi vào năm 1288 dl, Vua Trần Nhân Tôn đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc
Giang trùng tu đền thờ Ngài. Tại Quảng Đông và Quảng Tây có nhiều đền thờ Nữ tướng
Nguyễn Thánh Thiên, tước Nam Hải Công Chúa. Và hy sinh tại vùng này vào năm 42
dl. Dọc miền duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ Nữ
tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng Công Chúa. Dân trong vùng này đã tôn Bà là Giao
Long Tiên Nữ giáng trần vì Bà rất hiển linh.
No comments:
Post a Comment