Tài liệu đặc biệt: CỤ TRẦN TRỌNG KIM NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆT MINHThủ bút
Trần Trọng KimThư gửi Hoàng Xuân Hãn năm
1947
Nguyễn
Đức ToànViện Nghiên cứu Hán Nôm
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một
nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước
ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho
giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu
lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc
địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi
đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm
tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc
từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay
cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư
chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu
với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản
trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn
của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là
những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện,
giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện,
giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới
thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học
giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau
hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa
hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt
ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm
của chúng ta hiện nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt.
Nội dung như sau :Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471Ông Hãn2Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa
cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là
đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ,
gửi sang để Ngài4 xem.
Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái
cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như
ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng
chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết
thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở
bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do
ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng
đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người
Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được
việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ
của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9,
không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ
ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị,
nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm
một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược
gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng
không hỏi nữa.Tôi xem việc người Pháp làm, không
thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ
lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho
những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai
cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng :
Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ
Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói
: Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng
tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện
với Ngài12.Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc
tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên
không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu
thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ
khi khác sẽ liệu.Còn về phương diện người mình, thì
tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả.
Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà
thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ
nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và
Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có
thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải.Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi,
rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho
tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp
nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm,
nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền
và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17,
họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả.
Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e
khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó
khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái
dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là: 身 在 南 蕃 無 所 預心 懐 百 憂 復 千 慮(Thân tại Nam phiên vô sở dự,Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm
nghìn điều ưu lự)Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ
có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá.
Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để
đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn
cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như
hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa
quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa
dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống
Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng
các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản,
thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể
được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng功 之 首 罪 之 魁 (Công chi thủ
tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng
của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau
có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh
quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ - màng những thở - than,
Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã tím gan.Ông Oánh sinh thời là một người trung
hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái
nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả
nợ nước.Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi
đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19gửi
ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn,
thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì
tiếc quá.Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến
qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó
không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có
còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà
không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa
lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi
có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa,
vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22 Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây
giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.Nhà tôi và Chương24 đều
có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và
tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết
được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên
để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên
gửi người không được chắc chắn.
Nay kính thư Trần
Trọng Kim [tr4]Chú thích :
1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một
cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy
hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư
có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn,
nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước
Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội.
3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu
thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt
trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận
động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.
4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh
Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung
Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè,
sđd)
5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ
ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Lại Thế
gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội,
không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không
về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng
Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với
Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.
6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm
Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương
Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông
Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)
8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...
9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần
Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến
Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”
10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền,
từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài
chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội
cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra.
(Phạm Khắc Hoè, sđd)
11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm,
người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”.
12. Trần Trọng Kim lúc này đã không
còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh
hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.
13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo
(1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín,
thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia
Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ
tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu
tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam,
đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương
mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.
14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức
Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến,
bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không
thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến
khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập
hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt
Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà
Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch
hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống
Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo
Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật
trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia
thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc
dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16. Mặt trận quốc gia : Ngày
17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp
xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia
nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân
Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi
dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác
không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt
trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các
nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ
quốc"và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính
đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham
gia trong mặt trận này.
17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt
trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh
(1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường
Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim,
từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn
phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn
chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của
ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19. Vũ trụ đại quan : Một trong các
công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)
20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà
ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố
Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S.,
1969)
21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà
Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm
quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi
vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy
lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt
nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.
22.
Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ
được rồi.
23.
Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo
dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác
phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội
văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội
hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24. Chương : Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền
Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc
Hoè, sđd).
24. Chương: Tên người, lúc đầu tôi
chỉ tra cứu được 1 người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia
Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Đến
hôm 9.2.2014, bài viết nhận được phản hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều
Mỹ cung cấp thông tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái
cụ Trần Trọng Kim, tức bà "Trần Thị Diệu Chương, vì trong thư Cụ Kim thường kêu các
Cụ ngang tuổi là Ông… mà không nói tên trống không như thế này, vả lại Cụ
viết “nhà
tôi [tức
là vợ của Cụ] và Chương đều có lời chúc ông bà…” thì chắc chắn phải là
người trong gia đình Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn
còn sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang
tuổi ông Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần
Diệu Chương, vì Cụ Bùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở dĩ tôi dám quả quyết như
thế này là vì tôi là người trong họ của Cụ bà Trần Trọng Kim, nên tôi đọc
thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân Hãn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm
những người trong họ thì mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho
anh ở trên." (trích thư phản hồi của bà Phạm). Tôi xin sửa lại chú thích
này theo ý kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà.
_____________
Thư mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb
Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt
Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam.
S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II.
H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998
(2t)
Phụ lục ảnh nguyên
bản:
.
Nguồn: Blog Yêu Hán Nôm
No comments:
Post a Comment