TRUYỀN THUYẾT KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC
TRUYỀN
THUYẾT
KHỞI
NGUYÊN DÂN TỘC
Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử
được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi của dân tộc
đó. Nữ sĩ Blaga Dimitrova cũng như nhiều học giả ngoại quốc khác đã hết sức
ngạc nhiên xen lẫn thán phục khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam: “Việt Nam là một dân tộc mà huyền thoại và
hiện thực đan quyện hòa lẫn với nhau đến độ khó có thể phân biệt đâu là huyền
thoại đâu là hiện thực nữa”. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về cội nguồn
huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm
đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Người Việt Nam, từ em bé
thơ ngây đến cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả đến bác nông dân chân lấm tay
bùn, không ai mà không một lần nghe truyện cổ tích họ Hồng Bàng về “Con Rồng
cháu Tiên”. Là người Việt Nam, chúng ta hãnh diện về nguồn cội Rồng Tiên với
thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” đẹp như một áng sử thi mở đầu thời kỳ dựng
nước của dòng giống Việt.
Truyện họ Hồng Bàng về khởi nguyên dân tộc,
lần đầu tiên được Hồ Tông Thốc chép trong tác phẩm “Việt Nam Thế Chí” vào thế
kỷ XIV đời Trần nhưng sách đã bị quân Minh tịch thu tiêu hủy nên không còn nữa.
Những bộ sử đầu tiên được biết là bộ Sử Ký 史記 của
Đỗ Thiện đời nhà Lý, “Việt Chí” 越志 của Trần Phổ đời Trần và bộ
“Đại Việt Sử ký” 大越史記 do Lê văn Hưu biên soạn năm
1272 đời Trần Nhân Tông viết gồm 30 quyển chép lịch sử Việt Nam từ thời Triệu
Vũ Đế đến thời Lý Chiêu Hoàng. Cả 3 bộ sách này đã bị quân Minh tịch thu rồi
tiêu hủy nên cũng không còn nữa. Cuối đời Trần, sách Đại Việt Sử lược do một
tác giả vô danh biên soạn bị quân Minh tịch thu tiêu hủy còn bản duy nhất lưu
trữ trong “Thủ Sơn Các Tùng Thư và Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư” đời Thanh. Tiền
Hi Tộ, sử quan triều Thanh khi hiệu đính đã sửa chữa nội dung kể cả tên sách
Đại Việt Sử lược cũng bị sửa lại là Việt Sử Lược. Sử quan triều Thanh Tiền Hi
Tộ đã sửa đổi niên đại thành lập nước Văn Lang, kéo lùi lại hàng ngàn năm hòng
xóa bỏ vết tích quê hương xa xưa của Việt tộc ở Trung Quốc. Với thủ đoạn thâm
độc quỷ quyệt, Tiền Hi Tộ đã xuyên tạc ý nghĩa cao đẹp của sự thành lập quốc
gia Văn Lang, Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập dân tộc thì Tiền Hi Tộ viết
là bất mãn Tô Định bạo tàn nổi lên làm loạn! Đây bản chất thâm độc quỷ quyệt
của Hán tộc xâm lược bành trướng từ xa xưa cho đến ngày nay.
Sử quan triều Thanh là Tiền Hi
Tộ đã sửa đổi xuyên tạc, bóp méo lịch sử để làm giảm ý nghĩa cao đẹp của sự
thành lập quốc gia Văn Lang như sau: “Đến
đời Chu Trang Vương (696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp
phục được các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn
Lang. Phong tục thuần hậu, chất phác. Chính sự dùng lối thắt nút. Truyền được
18 đời đều gọi là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn (505-465 tr. CN.) đã sai sứ tới dụ,
Hùng vương chống cự lại. Cuối đời Chu, Hùng vương bị con vua Thục là Phán đánh
đưổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt thường, xưng hiệu là An Dương Vương,
không thông hiếu với nhà Chu… Cuối đời Tần, Triệu Đà chiếm cứ Uất Lâm, Nam Hải,
Tượng quận, xưng vương đóng đô ở Phiên ngung, quốc hiệu là Việt, tự xưng là Vũ
Vương”.1
Đầu thế kỷ XIV, Trần Thế Pháp và Lý Tế
Xuyên đời Trần đã chép lại những truyền thuyết dân gian vào bộ sách “Lĩnh Nam
Trích Quái” và “Việt Điện U Linh” để truyền lưu nguồn gốc giống dòng Việt cho
đời sau. Trần Thế Pháp tác giả Lĩnh Nam Trích Quái viết: “Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc chưa có quốc sử để ghi chép cho nên nhiều
truyện bị mất đi, may còn truyện nào không bị thất lạc được dân gian truyền
miệng thì đó là SỬ ở trong truyện chăng? Than ôi, Lĩnh Nam Liệt truyện sao
không khắc vào đá, viết vào tre mà chỉ truyền tụng ở ngoài bia miệng?! Từ đứa
trẻ đầu xanh đến cụ già tóc bạc đều truyền tụng và yêu dấu, lấy đó làm răn, rất
quan hệ đến cương thường, phong hoá. Ôi! Há đâu phải là điều lợi nhỏ ?”.
Năm 1329, Lý Tế Xuyên viết Việt Điện U
Linh cũng ấp ủ hoài bão bảo vệ truyền lưu truyền thuyết về nguồn cội dân tộc.
Lý Tế Xuyên viết: “Xem truyện họ Hồng
Bàng thì hiểu lai do việc khai sáng nước Hoàng Việt. Trời đã sai chim huyền
điểu giáng thế sinh ra vua Thương thì hẳn có việc trăm trứng nở thành trăm con
trai chia trị Nam quốc. Truyện họ Hồng Bàng không thể mất được”. Học giả Lê
Quý Đôn trong “Kiến văn Tiểu lục” viết năm 1777 đã nhận định: “Hồi đầu niên hiệu Khai Hựu (1329-1341) nhà
Trần, Lý Tế Xuyên phụng mệnh chép Việt Điện U Linh tập, ghi đền miếu thờ các vị
thần, có trình bày hạo khí linh tích 8 vị Đế vương Lịch đại và 12 vị Nhân thần.
Sách này lời văn trang nghiêm, sự việc xác thực, cũng tỏ ra tài nhà sử học lành
nghề. Trong sách có dẫn Giao Châu ký của Tăng Cổn, Sử ký của Đỗ Thiện và truyện
Báo cực. Những sách này đều không còn thấy lưu truyền ..!”.
Mãi đến đời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên mới
chính thức đưa thời đại Hùng Vương vào bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越史記全書.2 Quan niệm
của ông khi viết sử là để “Xét rõ nguồn
gốc xưa nay của trị loạn để bạo biếm khen chê răn đời”. Ngô Sĩ Liên tuy mới
chép thời đại Hùng Vương trong phần ngoại kỷ chứ chưa chính thức ghi vào chính
sử cốt ý để cho thế hệ đời sau soi sáng cội nguồn qua các công trình nghiên cứu
để minh nhiên lý giải nguồn gốc dân tộc. Sử gia Ngô Sĩ Liên viết “Nước Đại Việt ta ở về phía Nam Ngũ Lĩnh,
thế là Trời đã chia bờ cõi Nam Bắc hẳn hòi. Thủy tổ của ta là con cháu Thần
Nông. Trời đã sinh ra vị chân chúa vì thế mới cùng Bắc triều đều làm chúa Tể
một phương”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết tiếp về họ Hồng Bàng như sau: “Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là
Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Đế Minh đi tuần
du phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vụ Tiên nữ sinh ra Vương (Lộc Tục). Vương
là bậc Thánh trí thông minh. Đế Minh yêu quý lạ, muốn cho nối ngôi. Vương cố
nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh nên Đế Minh lập Đế Nghi là con trưởng
nối dòng trị phương Bắc và phong cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam,
đặt tên nước là Xích Quỷ. Vương lấy con gái Chúa Động Đình tên là Thần Long,
sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm, nhà vua lấy con gái của
Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm trai. Tục truyền là sinh ra trăm trứng, ấy
là Tổ của Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu
Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khắc nhau, sum hợp
thật khó” nên phải chia tay, năm chục con theo mẹ về núi, năm chục con theo cha
về miền Nam. Có sách chép là về biển Nam. phong
con cả là Hùng Vương nối ngôi”.3
Truyền thuyết thoạt nghe có vẻ hoang đường
huyền hoặc thế nhưng, vấn đề là chúng ta phải đặt mình vào thuở ban sơ cách đây
mấy ngàn năm mới thấy rõ Tổ tiên ta đã sống ra sao và suy nghĩ thế nào ở thời
cổ đại? Từ đó mới có thể hiểu được những gì mà Tổ tiên ta đã gửi gấm cho chúng
ta qua bức thông điệp lịch sử hàng ngàn năm đó. Làm sao có chuyện trứng nở ra
người? Chi Âu Việt của người Việt cổ chọn vật linh biểu trưng là chim nên mẹ Âu
phải đẻ ra trăm trứng. Chim Phượng Hoàng của người Việt tung cánh bay theo
hướng mặt trời, diễn tả ý niệm người Việt thiên cư dần về hướng Đông xuống miền
bể, mặt khác chim bay lên trời được thăng hoa với hình tượng Tiên của mẹ
Âu.
Mỗi dân tộc đều có những truyền thuyết độc
đáo mang sắc thái đặc thù biểu trưng riêng của dân tộc đó. Ngay cả những dân
tộc mà ngày nay được xem là văn minh cũng đều có một con vật biểu trưng cho
dòng giống. Ấn Độ chọn con voi, Tàu chọn con cọp, Pháp chọn con gà trống
Gaulois, Anh chọn con sư tử, Mỹ chọn con chim ưng (đại bàng) nên Hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ lấy chim đại bàng làm quốc huy cho cả nước.
Theo cơ cấu luận thì Sử ký là sử hàng
ngang ghi chép các biến cố, các sự kiện cụ thể với những con người cụ thể theo
năm tháng, còn Huyền sử được gọi là sử hàng dọc mang tính tâm linh, xoay quanh
những tác động lý tưởng biểu thị bằng những hình tượng nguyên sơ giàu phổ biến
tính. Những hình tượng này tiềm ẩn trong đời sống tâm linh của một dân tộc như
trong huyền sử Rồng Tiên thì Âu Cơ chỉ là hình tượng nguyên sơ. Mẹ Âu Cơ là chi
tộc thờ chim của Việt tộc nên việc mẹ đẻ ra một cái bọc trăm trứng là chuyện bình
thường cũng như cái bọc không chỉ nói về cái bọc mà nó biểu trưng cho ý nghĩa
của 2 chữ đồng bào cùng chung một bào thai của mẹ Âu Cơ. Huyền sử nói trăm con
không nhất thiết phải là một trăm mà hàm ý số nhiều và quan trọng nhất là thư
tịch cổ Trung Hoa chép về cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch sử
của huyền thoại mà ta cứ tưởng là huyền hoặc hoang đường.
Ngày nay không ai phủ nhận được giá trị
của huyền thoại và truyền thuyết được
coi như lịch sử dân gian mà đôi khi nó có giá trị trung thực hơn cái gọi là
chính sử của các chế độ độc tài xưa và nay. Beaudelaire một thi sĩ nổi tiếng đã
nhìn nhận sức mạnh của truyền thuyết huyền thoại vì đó là “Sử cô đọng của các dân tộc”. Đại văn hào Pháp Victor Hugo khi viết
“Truyền Kỳ các thời đại” ông đã tìm về nguồn cội, khai thác các truyền thuyết
thần thoại xa xưa vì theo ông, đó là “Lịch
sử được lắng nghe ở ngưỡng cửa của truyền thuyết. Truyền kỳ có phần nào hư cấu
nhưng tuyệt đối không có ngụy tạo”. Thật vậy, truyền thuyết tự thân nó
không phải là lịch sử biên niên nhưng truyền thuyết là có thật, nó phản ảnh
những ý nghĩa có thật của một thời lịch sử ban sơ mà người xưa ký thác vào đó
dưới lớp vỏ hư cấu huyền hoặc để truyền lưu gửi gấm cho những thế hệ sau.
Laurens va de Post đã xem huyền thoại là di sản thiêng liêng nhất vì nó diễn tả
tinh thần dân tộc ở mức độ cao nhất. Micia Eliado cũng cho rằng “Huyền thoại là gia sản quý báu nhất vì tính
chất thiêng liêng điển hình và mang lại ý nghĩa sống cho cả một dân tộc”.
Vấn đề là phải làm sao hiểu được những ý
tưởng uyên nguyên, những tâm linh sâu thẳm hàm tàng ẩn chứa qua những hình
tượng nguyên sơ như P. Ricoeur đã viết:“Tất
cả đã được nói rồi trong các thần thoại, vấn đề chúng ta là chỉ còn phải tìm
hiểu”. Triết gia thời đại Jung đã viết:“Truyền
thuyết huyền thoại hàm chứa những ý nghĩa lịch sử trung thực nhất, vì nhân vật
thần thoại là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của một thời đại tạo dựng tỏa
sáng nhưng nó phải chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý giải.
Huyền thoại là đạo sống của một dân tộc”. Chính vì vậy, Wallace Cliff khẩn
thiết kêu gọi:“Nếu dân tộc nào để mất đi
huyền thoại là đánh mất mạch nối vào nguồn cội quá khứ của tổ tiên và cũng sẽ
mất luôn căn bản cho việc xây dựng tiền đồ của dân tộc đó”. Lịch sử đã
chứng minh nhận định của Karl Jung là “Dân
tộc nào quên đi huyền thoại thì dân tộc đó dù là những dân tộc văn minh nhất
sớm muộn cũng sẽ tiêu vong”.
Trong lịch sử loài người, nhiều cộng đồng
người đã không tồn tại được với thời gian vì không có truyền thuyết khởi nguyên
của dân tộc. Huyền thoại là di sản thiêng liêng nhất, quý báu nhất mà tiền nhân
đã để lại cho hậu thế. Huyền thoại là mạch sống nối cội nguồn quá khứ với thế
hệ hiện tại và mai sau, là gia sản cao quý vô giá ghi nhận những cảm nghiệm nội
tâm của người xưa đã thực chứng suốt dòng vận động của lịch sử. Thật vậy, huyền
thoại Rồng Tiên đã thấm sâu trong lòng mỗi người chúng ta để rồi trở thành đạo
sống của dân tộc Việt.
Chúng ta nghiên cứu huyền sử, tìm về nguồn
cội dòng giống qua những gửi gấm của người xưa là một việc làm hết sức đúng đắn
và cần thiết. Vấn đề đặt ra là với một thái độ trân trọng, một phương pháp khoa
học, nhưng không có quyền áp đặt những suy nghĩ của chúng ta hôm nay lên những
ý tưởng của người xưa mà chúng ta phải đặt mình hoàn cảnh lịch sử thời đó để có
thể hiểu được cái gọi là “lịch sử sống động của dân gian”. Chúng ta phải bỏ qua
những yếu tố thần thoại, loại ra những chi tiết hư cấu để chú tâm vào những hàm
tàng ẩn chứa trong nội dung. Chúng ta phải đặt mình vào hoàn cảnh xã hội đời
sống tâm linh của người xưa, mới thấy được cái tinh túy cốt lõi tiềm tàng trong
truyền thuyết. Khi chúng ta cảm nhận ít nhiều nội dung của bức thông điệp ngàn
năm, chúng ta tìm hiểu, phân tích, đối chiếu với nguồn sách sử cổ. Sự thật lịch
sử sẽ được phục hồi với những chứng cứ khoa học thuyết phục như Khảo cổ, Ngôn
ngữ, Dân tộc, Chủng tộc học, Khảo Tiền Sử, Cấu trúc mã di truyền DNA và Đại
Dương Học.
BỨC
THÔNG ĐIỆP
HÀNG
NGÀN NĂM LỊCH SỬ
Nhiều học giả ngoại quốc khi nghiên cứu về
lịch sử Việt Nam đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn thán phục dân tộc Việt Nam, một
dân tộc mà huyền thoại và hiện thực đan quyện hoà lẫn với nhau đến nỗi khó có
thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là hiện thực nữa. Mỗi dân tộc đều có những
truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử
thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt
tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân văn
của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử “con Rồng cháu Tiên” là niềm tự
hào của nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì không ai không một lần nghe
truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai trong chúng ta mà không biết về nguồn
cội Rồng Tiên với thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời kỳ dựng nước của
dòng giống Việt. Kể từ khi Ngô Sĩ Liên dẫn truyện họ Hồng Bàng trong “Lĩnh Nam
Trích Quái” để chép kỷ Hồng Bàng trong bộ Đại Việt sử ký Toàn Thư, thì lần đầu
tiên huyền thoại Rồng Tiên, nguồn gốc của dân tộc Việt được ghi trong lịch sử
nước ta.
Truyền thuyết Việt Nam không mang tính
thần thoại hoang đường của chủ nghĩa duy thần cuồng tín hoặc duy nhân thái quá
để tự mãn cho rằng chỉ có con người làm nên tất cả, chỉ có cái ta duy lý đó đã
dẫn tới quan niệm độc tôn, độc hữu của phương Tây.
Truyền thuyết Việt Nam không mang tính
huyền thoại ly kỳ như truyền thuyết về tình yêu của những anh hùng không thực
và giai nhân tuyệt sắc của Ấn Độ.
Truyền thuyết Việt Nam cũng không thiên về
sức mạnh của vật chất, của bắp thịt siêu nhiên kiểu Samson.
Truyền thuyết Việt Nam cũng không tôn thờ
những thần thánh “thế tục hơn cả thế tục” kiểu thần Ouranos loạn luân vô đạo,
thần tửu sắc Baccus, nữ thần sắc đẹp Vénus dâm dục, thần quan thầy thương mại
Mercure tay cầm túi tiền, tay cầm dùi đục như thần thoại La Hy phương Tây và
những nước cận Đông khác.
Truyền thuyết Việt Nam, nói đúng hơn đó là
truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng thực chất
lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống.
Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một
triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính nhân đạo, chan chứa vẻ nhân
văn mà còn tràn đầy tình đồng bào, nghĩa ruột thịt qua hình tượng “Bọc điều
trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào dẫn đến lòng yêu nước, thương nòi,
yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị đạo lý truyền thống của nền văn
minh đạo đức Việt Nam. Gạt sang một bên những hư cấu huyền hoặc, chúng ta cố
gắng tìm hiểu những ẩn ý sâu xa hàm tàng trong truyền thuyết gợi mở cho chúng
ta giải mã bức thông điệp Rồng Tiên từ ngàn xưa gửi cho hậu thế Việt Nam.
Tự thân truyền thuyết đã chiếu giải trung
thực ý nghĩa của những sự kiện lịch sử sau:
No comments:
Post a Comment