QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Nhân Mùa Giỗ Tổ 4893, Chúng Tôi đăng toàn bộ tác phẩm Quốc Tổ Hùng Vương của Phạm Trần Anh. Kính mong quý độc giả tiếp tay phổ biến rộng rãi để thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ hơn về nguồn cội dân tộc. Chân thành cảm ơn quý vị.
PHẠM TRẦN ANH
KÍNH DÂNG
HỒN THIÊNG SÔNG
NÚI
DÒNG GIỐNG RỒNG
TIÊN
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG LẬP QUỐC
ANH THƯ HÀO KIỆT ĐỜI ĐỜI BẢO QUỐC AN DÂN
Sông núi trời Nam của
nước Nam
Sách trời định rõ tự
muôn ngàn
Cuồng
ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc
lấy bại vong lũ bạo tàn…
PHẠM TRẦN ANH
cẩn dịch
LĂNG QUỐC TỔ (Trên Đền Hùng, núi Nghĩa Lĩnh)
Nhớ xưa Quốc Tổ dựng nền
Ngàn năm văn hiến sử thiên anh hùng
Bọc điều trăm họ thai chung
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam!
PHẠM TRẦN ANH
DI CHÚC MUÔN ĐỜI !
"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm
những điều bậy bạ, trái đạo.
Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Quốc. Chớ
coi thường chuyện vụn vặt xảy ra
trên biên ải mà ta phải nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họ không bao giờ tôn trọng biên giới quy ước. Họ cứ luôn luôn đặt
ra những cái cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần
họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta
dặn:"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay
kẻ khác
".
Ta muốn lời nhắn
nhủ này như một di chúc cho con cháu muôn đời sau. Quá
khứ là gốc rễ của tương lai, rễ càng đâm sâu thì cây mới vững vàng và càng vươn cao".
VUA TRẦN NHÂN TÔN
(1279-1293)
"Một
thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào có thể vứt bỏ ? Ngươi phải kiên
quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang
phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian.
Nếu ngươi dám
đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho gìặc, thì phải tội tru
di … "
VUA LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497)
DUY
NGÃ ĐẠI VIỆT CHI QUỐC
THỰC
VI VĂN HIẾN CHI BANG…
NGUYỄN
TRÃI
CHỈ NƯỚC
ĐẠI VIỆT TA TỪ TRƯỚC
MỚI CÓ NỀN VĂN HIẾN NGÀN NĂM …
PHẠM
TRẦN ANH
Cẩn dịch
Chúng ta đều do Tổ Tiên sinh ra, không
cứ là trai gái già trẻ, không cứ là chi tộc nào, dòng họ nào. Mọi người đều là
”CON RỒNG CHÁU TIÊN”, từ một bào thai của mẹ Âu nên tất cả đều từ một mẹ sinh
ra các ngành các chi mà thôi.
Cành cây lớn muôn lá, gốc vốn ở rễ. Nước có nghìn dòng sông, muôn ngọn
suối, vốn có gốc từ một ngọn nguồn. Cảnh vật còn như vậy, huống chi là con người
chúng ta. Con người sinh ra đời, đời đời nối tiếp về sau, đều do các người đời
trước nuôi nấng dìu dắt vậy.
Ngưỡng mộ và tưởng nhớ Tổ Tiên, chúng ta hãy lấy việc siêng năng mà bồi
đắp cho gốc rễ. Lấy sự cần kiệm làm răn rồi tu nhân tích đức, giàu lòng thương
người hơn là chê bai ghen ghét người. Là con cháu thì chúng ta phải nối tiếp
truyền thống của Tổ Tiên, chứ lẽ nào con cháu mà lại không suy nghĩ về ý nghĩa
thâm trầm cao đẹp nói trên hay sao?
HOÀNG ĐẾ QUANG
TRUNG
(Nói chuyện với các bô lão làng Vân Nội)
BÁCH VIỆT TỪ ĐƯỜNG TỘC PHẢ
Chú giải
của La Sơn Phu Tử
“Người Việt đã bao
nhiêu thế kỷ chịu ảnh hưởng của văn minh Hán Hoa, đã ăn sâu vào cá tính và có
thái độ cho rằng mình thua kém, chỉ thu thập văn minh và văn hóa Trung Quốc mà
không tin rằng, văn hóa Trung Quốc thật sự đã nhận được sự đóng góp đáng kể từ
các dân tộc Bách Việt ở phương Nam. Những nếp sống văn hoá này đem vào Trung
Hoa thời Tiền sử mang yếu tố “Biển” rõ rệt và có thể mô tả bằng một chữ, đó là
chữ “VIỆT” mà trước kia thường gọi sai lầm là Thái cổ (ProtoThai)”. Tôi xác định chữ Việt nay là
quốc hiệu của một nước vùng Đông Nam châu Á: Nước Việt Nam. Sự thật bị che phủ
hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến
ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật .!!!”.
J. NEEDHAM
“Ngay
từ ngày lập quốc, tất cả then chốt của lịch sử Việt Nam đều ở cái tinh thần đối
kháng đã biết kết hợp một cách kỳ lạ, một bên là năng lực đồng hoá lạ lùng, bên
kia là ý chí quật khởi quốc gia không chịu khuất phục mặc dầu bị thua trận, bị
phân tán, bị chinh phục. Hơn một ngàn năm bị sát nhập hoàn toàn vào Trung Quốc,
từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên đến thế kỷ thứ mười sau kỷ nguyên, thay vì
làm cho dân tộc Việt Nam kiệt quệ thì ngược lại đã làm cho dân tộc Việt trở nên
hùng cường … Việt Nam đầy rẫy những triết gia hiểu biết theo nghĩa là những con
người có chiều sâu tư tưởng, biết suy nghĩ trăn trở. Càng về đồng quê, thôn
cùng xóm vắng thì càng nhiều tới mức Paul Mus
cho rằng đó là xã hội lý tưởng của Platon mơ ước đã hiện thực ở Việt Nam
từ lâu rồi”.
PAUL MUS
“ Việt tuy gọi là
man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy ..!”.
TƯ MÃ THIÊN
“Độ luợng bao dung,
khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam,
người quân tử ở đấy ..! Mặc giáp cưỡi
ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ
cường đạo ở đó...”.
KHỔNG PHU TỬ
“Giao Chỉ là đất
văn hiến, núi sông hun đúc,
trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”.
HÁN HIẾN ĐẾ
"Người
trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước, yêu nhà,
mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã-hội
của Tổ tiên đã xây dựng nên mà để lại cho mình".
TRẦN TRỌNG KIM
(Việt Nam Sử Lược)
LỜI
GIỚI THIỆU
Như một nhân duyên tôi được đọc những tác
phẩm cổ sử của sử gia Phạm Trần Anh, tôi đã tìm lại “Cội nguồn của dân tộc cũng
như của nền Văn minh Việt cổ”, nền móng căn bản dựng nước của Tổ Tiên. Cội
nguồn này đã bị khống chế và đè bẹp bởi “Văn minh Bái vật của Đại Hán”. Dòng
đạo lý nguyên thủy của Việt tộc là thờ trời thay vì thờ người như văn minh của
du mục phương Bắc. Trật tự của xã hội Việt Nam là trật tự của thiên nhiên.
Sau gần một ngàn năm bị Hán tộc thống trị,
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đã đem cái trật tự “Quân thần” để Hán hóa dân
tộc ta bằng hình thức nô dịch văn hóa. Sự xích hoá và nô dịch văn hóa của Hán
tộc đã làm cho sinh mệnh bản thể của văn minh, văn hóa Việt bị vùi dập, lu mờ
hàng ngàn năm qua. Đây là sự mất mát khủng khiếp đã làm cho hồn dân tộc Việt
lao đao lận đận mãi cho tới bây giờ. Lẽ trời đất thịnh suy, suy thịnh cùng với
những thăng trầm hưng phế của lịch sử. Tôi đã đọc “Nguồn Gốc Dân Tộc” “Quốc Tổ
Hùng Vương” và “Việt Nam Nước Tôi” mà lòng mình cảm thấy chứa chan hạnh phúc.
Bao nhiêu câu hỏi đặt ra mà tôi ấm ức mãi vì không tìm được lý giải khiến tôi
canh cánh mãi bên lòng đã được trình bày cặn kẽ sáng tỏ. Lần đầu tiên tôi được
đọc một quyển sách về lịch sử Việt Nam với những lý lẽ thuyết phục nhất về
nguồn cội dân tộc Việt Nam nên hôm nay, tôi muốn chia xẻ với tất cả những người
Việt nam yêu nước thương nòi về nguồn cội dân tộc.
Bước sang thiên niên kỷ thứ Ba của nhân
loại, cơ duyên vận nước sắp đổi thay nên sử gia Phạm Trần Anh đã được điểm hóa
để viết những tác phẩm để phục hồi sự thật khách quan của lịch sử, giúp cho
chúng ta nhìn lại “Khuôn mặt Ngàn đời của Nòi giống Việt” nổi trôi theo vận
nước. Chính vì vậy, tác phẩm của sử gia Phạm Trần Anh được xem như một “Quyển
sách Gối đầu giường” không thể thiếu được của một người Việt Nam yêu nước
thương nòi, nhất là các bạn trẻ thanh niên sinh viên phải tìm hiểu, nghiền ngẫm
để làm hành trang trên con đường cứu quốc và kiến quốc để “Hưng quốc”.
Điều tôi tâm đắc nhất là ông Phạm Trần Anh
là một người yêu nước nồng nàn, một chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ tự do dám hy
sinh cả tính mạng mình cho dân tộc. Tấm lòng yêu nước đến cùng cực của ông còn
thể hiện trong những tác phẩm lịch sử của ông. Thật vậy, sử gia Phạm Trần Anh
đã khẳng định lập trường rõ rệt là “chỉ
dùng chữ nhà cho những triều đại của Việt Nam vì nhà là cái gì thân thiết nhất,
gần gũi nhất, cái gì của mình nên không thể dùng chữ nhà cho các triều đại Tầu
Hán như nhà Hán, nhà Minh, nhà Thanh mà các sử gia trước đây thường dùng bừa
bãi lẫn lộn”. Điều này chứng tỏ rằng người tù bất khuất Phạm Trần Anh không
chỉ là một chiến sĩ cách mạng đã đứng lên đấu tranh lật đổ bạo quyền Cộng sản
mà ông quả thực là một nhà cách mạng ngay trong lĩnh vực lịch sử. Thật vậy, do
ảnh hưởng vào sách sử cũng như học vị nên từ trước tới nay, chưa một sử gia nào
dám đặt lại vấn đề, chưa dám xét lại những gì ghi chép trong sách sử dù có thấy
một vài điểm vô lý. Đối với lĩnh vực sử học, việc làm này xem như “Phạm húy”,
liều lĩnh dại dột dám phản bác chống lại những “Khuôn vàng thước ngọc” của tiền
nhân từ hàng nghìn năm nay. Thế nhưng, sử gia Phạm Trần Anh đã dám làm điều đó
để “phục hồi sự thật lịch sử, Trả lại
những gì của lịch sử cho lịch sử”
làm cho mọi người phải đặt lại vấn đề, gạt bỏ nhận định sai lầm từ trước
đến nay về lịch sử của dân tộc Việt.
1. Thứ nhất là sử gia Phạm Trần
Anh đã phục hồi sự thật lịch sử về “Cái gọi là văn minh Trung Quốc” chính là
nền văn minh của Việt tộc. Học giả thời
danh J Needham, một nhà Trung Hoa Học người đã nói: “Sự thật bị che phủ hàng
ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay
cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật!”. Sử gia Phạm Trần Anh viết: “Tứ Thư Ngũ Kinh không phải của Hán tộc mà
chính là của Việt tộc. Sách Trang Tử kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử. Khổng Tử
nói: “ Khâu này chỉ khảo cứu sâu 6 kinh là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu”.
Như vậy thời Khổng Tử bộ Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu đã có
từ lâu và được gọi là “Kinh”. Chính bộ “Trung Quốc Văn học Sử” do “Bắc Kinh đại
học, Trung văn hệ” biên soạn viết rõ ràng là “Tên gọi Thi Kinh là do Hán Nho
thêm vào”. Sử gia chính thống Hán tộc Tư Mã Thiên viết “Xưa kia, Thi vốn có hơn
3 ngàn bài, đến Khổng Tử chỉ lấy 305 bài hợp với việc thực thi lễ nghĩa, đem
phổ nhạc, cố tìm âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng”.
Cổ văn Thượng Thư do Lỗ Cung Công con của Lỗ Cảnh Đế tìm thấy khi phá ngôi
nhà cũ của Khổng Tử để xây cất lại lớn hơn. Trong bức vách nhà có những sách cổ
thời Ngu-Hạ-Thương-Chu, Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ cổ gọi là Khoa Đẩu tự hình con nòng
nọc. Sách Hán Thư, Thiên văn Nghệ chí chép “Cổ
văn Thượng Thư được tìm thấy trong vách tường nhà Khổng Tử. Khổng An Quốc, hậu
duệ của Khổng Tử trước đây đã biết bộ sách này có 29
thiên do Phục Sinh truyền, chưa kể Thái Thệ còn thừa ra 16 thiên, tính ra 45
quyển, 58 thiên không kể bài tựa … nay lại được thêm 16 quyển”. “Như vậy, rõ ràng là Ngũ Kinh
có trước thời Khổng Tử và được viết bằng lối chữ “Khoa Đẩu” là lối chữ viết
theo hình dáng của con nòng nọc của Việt tộc thời xa xưa. Lối chữ “Nòng Nọc”
của người Việt cổ cùng với nền văn hóa Hòa Bình đã lan truyền khắp Trung Đông,
góp phần tạo nên những nền văn minh cổ đại khác của nhân loại”.
Thực tế lịch sử này được Hội nghị Quốc tế các nhà Trung Hoa học trên khắp
thế giới kể cả Trung Quốc và Đài Loan hội thảo về “Nguồn gốc nền văn
minh Trung Quốc” tại đại học
Berkerley Hoa Kỳ năm 1978. Hội nghị đã thừa nhận là “Không thể tìm ra đủ dấu
vết chứng cớ để phân biệt giữa Hán tộc và các tộc người không phải là Tàu trên
phương diện lịch sử. Giới nghiên cứu phải tìm về dấu tích văn hoá mà về văn hoá
thì Hán tộc chịu ảnh hưởng của Di Việt”. Như vậy, Di Việt làm chủ Trung nguyên trước Hán tộc và các
triều đại Thương, Chu tiếp thu văn hóa của Di Việt ở phương Nam. Thực tế này đã được chính “Người thầy Muôn
đời” của Hán tộc là Khổng Tử
đã ca tụng tính ưu việt của nền văn minh rực rỡ của Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung
Khổng Tử đã viết như sau: “Độ lượng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không
báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử cư xử
như vậy ..! Mặc
giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của
phương Bắc. Kẻ cường đạo hành xử như thế...”. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán cũng phải thừa nhận: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc,
trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”. Chính
vì vậy, sử gia chính thống của Hán
tộc là Tư Mã Thiên cũng phải
thừa nhận một sự thực là “Việt tuy gọi là
man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy ..!”.
Ngày nay, sử gia hàng đầu của Trung Quốc là Trương Quang Trực (Chang Kwang Chih), đã
phải thừa nhận là tuy Trung Quốc là một quốc gia lớn với một nền văn hoá lớn nhưng nó đã phải thâu nhập tinh hoa của
nhiều nền văn hoá hoá hợp lại: “Những nền
văn hoá địa phương thời tiền sử, sau khi thống nhất đã trở thành một bộ phận
của văn hoá Trung Quốc. Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ là phần nhỏ nhưng sau
khi triều Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy là dân tộc Trung Hoa”.
2. Thứ hai là trong lịch sử chưa
một ai dám phê bình Tư Mã Thiên, sử gia chính thống của Hán tộc, một ngôi sao
Bắc Đẩu trong lịch sử phương Đông nói riêng và cả nhân loại nói chung. Sử gia
Phạm Trần Anh là người đầu tiên đã chứng minh một cách khoa học nhất, thuyết
phục nhất rằng nhân vật Hoàng Đế mà sử gia Tư Mã Thiên viết là Tổ Tiên của nhân
dân Trung Quốc, người khai mở lịch sử Trung Quốc là không đúng sự thật. Ông
viết:“Theo Từ Hải thì Hoàng Đế, Li Vưu (Xuy Vưu) đều là những thị tộc trưởng nên sở dĩ có
chiến tranh là để giành ngôi vị thủ lĩnh mà thôi. Gần đây, học giả Eberhard một
nhà Trung Hoa học nổi tiếng đã công bố một sự thật là vào khoảng năm 450 TDL,
một người viết sử đã đưa Hoàng Đế nguyên là một vị thần nhỏ trong địa phận Sơn
Đông lên làm vị vua đầu tiên của Hán tộc. Nếu Hoàng Đế là một nhân vật có thật
thì Đế Hoàng ở Sơn Đông phải là người Việt cổ, hậu duệ của Thần Nông. Sơn Đông
là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trãi của Việt tộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ
Đông Di nên vị thần Đế Hoàng chính là người Việt cổ nhưng sử gia Tư Mã
Thiên nhận là thủy tổ của
người Trung Quốc nên viết Đế Hoàng theo cú pháp Hán tự là Hoàng Đế.
Mạnh Tử xác nhận vua Thuấn là người Đông Di và từ điển Từ Hải cũng xác định
là tổ tiên và con cháu Thuấn đều được phong ở đất Đông Di. Thế mà Tư Mã Thiên,
sử quan chính thống Đại Hán lại bao biện cho rằng Thuấn bị xem là người Đông Di
vì thói quen hồi đó gọi là như thế. Luận điệu này không có tính cách thuyết
phục. Tại sao lại có thói quen gọi một người đồng chủng nhất là một vị vua là
rợ Đông Di? Chính bản thân Tư Mã Thiên chỉ can gián vua mà đã bị tội “Cung
Hình” phải cắt bỏ bộ phận
sinh dục huống chi gọi vua là man di mọi rợ, chắc chắn phải bị tru di tam tộc!”.
3. Thứ ba, sử sách Trung Quốc ghi
“Tam Hoàng Ngũ Đế” là không đúng mà thực ra chỉ có nhị hoàng là Phục Hy, Thần
Nông. Sách sử Trung Quốc viết rằng Hoàng Đế là người khai mở lịch sử Trung Quốc
và các triều đại kế tiếp Nghiêu, Thuấn, Hạ là của lịch sử Trung Quốc. Sử gia
Phạm Trần Anh đã trưng dẫn những chứng cứ lịch sử cùng với những kết quả của
các công trình nghiên cứu khoa học hết sức thuyết phục đã phục hồi sự thật lịch
sử như sau: “Theo các nhà Tiền Sử học thì Malayo-Viet
tức Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6 ngàn năm
hoàn toàn phù hợp với niên đại trong huyền sử ghi rằng họ Phục Hy làm vua từ
năm 4.480 đến 3.220 TDL và họ Thần Nông làm vua từ năm 3.220 TDL đến năm 3.080
TDL. Thời Xuân Thu là thời kỳ
phục hưng của Việt tộc với sự trổi dậy của các quốc gia Bách Việt, hết Ngô đến
Việt xưng “Bá” rồi tới Sở lãnh đạo liên minh 6 nước trung nguyên chống Tần
giành quyền thống lĩnh trung nguyên. Chính vì vậy, thời kỳ này mới xuất hiện
các nhân vật huyền sử Việt từ Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế)
tới Đế Xuyên Húc, Đế
Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn và
Đế Đại Vũ nhà Hạ của Việt
tộc. Chính Khổng Tử, người được xem là bậc thầy muôn đời của Trung quốc cũng
biết rõ điều này nên chưa hề nhắc tới nhân vật Hoàng Đế của Trung Quốc mặc dù Khổng Tử đã xác nhận rõ là theo phò triều Chu.
Trong các tác phẩm Cổ sử Khảo, Tam ngũ Lịch, Đông Kỷ, Đế vương Thế kỷ thì tất cả đều khẳng
định rằng Thần Nông có liên quan huyết thống với Việt tộc. Nói cách khác, Việt
tộc chính là hậu duệ của Thần Nông. Cổ thư Trung Quốc chép đời Nghiêu Thuấn đánh dẹp họ Cộng
Công của Hán tộc vì đã tranh ngôi với Chúc Dung là hậu duệ của Đế Viêm Thần
Nông. Vua các nước Trịnh và hoàng tộc một số nước ở bán đảo Sơn Đông như Tề,
Lỗ, Trần đều nhận họ là con cháu Thần Thái Sơn và lấy họ Khương của Thần Nông. Như vậy, Thần Nông họ Khương định cư ở đất
Khương phía Tây nên sử TQ viết là Tây Khương đúng như truyền thuyết kể lại là cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh đi
tuần du phương Nam
…
4. Thứ tư, sử gia Phạm Trần Anh
đã dẫn chứng công trình khảo cổ học để chứng minh dòng Thần Nông phương Bắc gồm
Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Hạ Vũ
nhà Hạ là của Việt tộc. Thật vậy, Lịch sử vẫn là lịch sử trên nguồn thư tịch,
thế nhưng một khi những sự kiện lịch sử này được các công trình khảo cổ chứng
minh qua những di chỉ, hiện vật tại nơi đã xảy ra sự kiện này cũng như thời
điểm niên đại khảo cổ được xác định bằng phương pháp đồng vị C 14 thì sự kiện
này trở nên hiện thực lịch sử sống động, có giá trị thuyết phục mà không một
luận cứ nào có thể phản bác được. Với phương pháp phóng xạ C14, các nhà khảo cổ
đã xác minh được những người Ngưỡng Thiều, Long Sơn thuộc chủng “Nam Mongoloid”
mà chúng tôi gọi là đại chủng Hoabinhoid => Hoabinhian=> Protoviets =>
Malayoviet = Bách Việt mới chính xác. Kết qủa phân tích mã di truyền DNA cho
biết người miền Đông và miền Nam Trung Quốc hiện nay có cùng DNA với người Việt
Nam và cả cư dân Đông Nam Á nữa. Chứng cứ khảo cổ này đã phục hồi sự thật lịch
sử là nhà Hạ trong lịch sử Trung Hoa là của Việt tộc đã định cư ở vùng sông Bộc
mà truyền thuyết kể là ngành Thần Nông phương Bắc đã thành lập các triều đại Đế
Hoàng, Đế Nghiêu, Đế Thuấn và Đế Vũ nhà Hạ.
5. Thứ năm, sử gia Phạm Trần Anh
là người đầu tiên lý giải truyền thuyết khởi nguyên dân tộc một cách rõ ràng
nhất, đầy đủ nhất, trong sáng và thuyết phục nhất chứ không còn hoang đường
huyền hoặc như chúng ta vẫn hiểu từ trước đến giờ. Thế là truyền thuyết từ chỗ
“u u minh minh” đã trở thành “minh minh” chứ không còn “u u minh minh” như
trước nữa.
“Với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng nghiêm chỉnh và với phương pháp nghiên cứu huyền thoại
để tự đặt mình vào hoàn cảnh lịch sử thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong
huyền thoại sẽ gợi mở sáng tỏ, minh nhiên lý giải những gì ẩn tàng trong bức thông điệp “Huyền
Thoại” của tiền nhân gửi gấm cho thế hệ chúng ta. Ý niệm trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem
vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim là một con vật đứng đầu
trong tứ linh: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Vì vậy, việc Mẹ Âu Cơ mà
vật tổ biểu trưng là chim thì việc mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người
con trai trên bình diện tâm linh là bình thường không có gì đáng ngạc nhiên cả…Chúng
ta nên nhớ rằng, những gì của truyền thuyết không hoàn toàn là sự thật mà nó
chỉ biểu trưng cho những hàm ý ẩn tang của tiền nhân. Truyền thuyết kể việc Lạc
Long Quân lấy Âu Cơ chính để diễn tả sự hợp nhất giữa 2 dòng Thần Nông. Sự thật
này được khoa khảo cổ học xác minh nên chúng ta không suy nghĩ theo đời thường
là chú lấy cháu, hôn nhân đồng huyết. Cũng vậy, mẹ Âu để ra trăm trứng nở ra 1
trăm người con trai chỉ để đời sau hiểu rằng chúng ta có 1 trăm giống Việt, từ
đó chúng ta có trăm họ (bá tính, bá tánh) và thời kỳ này người Việt cổ đã chuyển
dần sang chế độ phụ hệ mà thôi…”.
6. Sử gia Phạm Trần Anh đã chứng minh niên đại của truyền thuyết về Thần Nông vào thiên
niên kỷ thứ IV TDL hoàn toàn phù hợp với niên đại khảo cổ và kết quả đo chỉ số
sọ của các nhà Khảo Tiền Sử về chủng Hoabinhian-Protoviet => Indonesian (Malaynesian=> Malayo-Viet =
Bách Việt Bai-Yue). Theo các nhà Tiền Sử học thì
Malayo-Viet tức Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6 ngàn
năm. Công trình nghiên cứu sử học của học giả Shi Shi người Trung Quốc thì người
U Việt (Gu-Yue) đã làm chủ biển cả cách đây hơn 7 ngàn
năm. Đặc biệt, truyền thuyết
kể lại rằng bố Lạc dẫn 50 con về “Thủy Phủ”, trước đây chúng ta cho là huyền
hoặc thế nhưng địa danh thủy phủ đã được 2 học gỉa người Pháp là P Gouron và J
Loubet tìm ra, đó chính là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên được in
trên bản đồ Atlas 1949. Sự thật lịch sử này đã được chính nguồn sách sử cổ
Trung Hoa xác nhận khi chép về cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch
sử của huyền thoại mà ta cứ tưởng là huyền hoặc hoang đường.
Chính thư tịch cổ Trung Quốc thừa nhận sự thành lập của các quốc gia thời Chiến quốc mà họ gọi là Bách Việt ở
vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết
Giang mà lên tới miền Giang Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi
tiếng của chi Dương Việt mà kinh đô là Cối Kê. Lý Tế Xuyên đã viết “Việt Điện U
Linh” về nước Việt cổ xưa. Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Điền
Việt ở Vân Nam, Quỳ Việt ở Tứ
Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở
Quảng Tây và Bắc VN. Chính sách sử cổ Trung Quốc ghi rõ cộng đồng Bách Việt cư
trú khắp trung nguyên, thế mà sử quan triều Thanh Tiền Hy Tộ đã bóp méo ý nghĩa
và sửa lại niên hiệu thành lập nước Văn Lang như sau: “Đến đời Chu Trang Vương (696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo
thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là
nước Văn Lang. Phong tục thuần hậu, chất phác. Chính sự dùng lối thắt nút.
Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương …”.
Trước những sự thật của lịch sử, Trung Quốc đã phải xác nhận là nền văn hoá
của họ là do hàng trăm dân tộc góp phần tạo dựng nhưng văn hoá Hán ở vùng Tây
Bắc là chủ thể. Thế nhưng chính học giả Trung Quốc Wang Kuo Wei lại cho rằng
nơi phát nguyên văn hoá Trung Quốc là ở miền Đông Bắc tức vùng Sơn Đông của Lạc bộ Trãi chứ không phải ở miền
Tây Bắc (Thiểm tây) như quan niệm sai lầm từ trước đến nay. Các nhà sử học Mác Xít đã sửa đổi lịch sử rập khuôn sử quan triều Thanh theo nghị quyết của đảng Cộng Sản Việt Nam về sự thành lập nước Văn Lang.
Bộ Lịch sử Việt Nam của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam viết: “Sự ra đời
của nhà nước Văn Lang đầu tiên của nước ta đời Hùng Vương và Âu Lạc đời An
Dương Vương vào giai đoạn Đông Sơn trong thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên…
Căn cứ theo 15 bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào quá trình chuyển hoá
lịch sử nước Văn lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời An Dương Vương, rồi
đến 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có thể xác định
địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta ngày
nay và một phần phía Nam tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc”. Đây là một tội ác lịch sử “Thần Người
đều căm hận, Trời Đất chẳng dung tha” của tập đoàn Việt gian bán nước, tội
đồ muôn đời của dân tộc.
7. Cuối cùng, sử gia Phạm Trần
Anh đã dẫn chứng một sự thật lịch sử mới được khoa học xác nhận phân tích cấu trúc di truyền DNA của Việt tộc
đã xác định một lần nữa là Việt tộc là một đại chủng và hoàn toàn khác biệt với
Hán tộc đã làm sáng tỏ vấn nan khúc mắc từ ngàn xưa. Tôi trân trọng cám
ơn sử gia Phạm Trần Anh đã dày công nghiên cứu để hôm nay chúng ta có một bộ sử
với những chứng cứ khoa học nhất, thuyết phục nhất, đầy đủ nhất và hữu ích nhất
cho thế hệ con em Việt Nam chúng ta.
Nguyễn Anh Tuấn (Tiến sĩ Khoa học Chính Trị
LỜI NÓI
ĐẦU
Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử
được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi của mình.
Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ
huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân văn của truyền
thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con Rồng cháu Tiên là niềm tự hào của nòi
giống Việt. Đã là người Việt Nam thì từ em bé thơ ngây đến cụ già trăm tuổi, từ
bậc thức giả uyên bác đến bác nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, không ai
không một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai trong chúng ta mà
không biết về nguồn cội Rồng Tiên với thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời
kỳ lập quốc của dòng giống Việt.
Truyền thuyết Việt Nam nói đúng hơn đó là
truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng thực chất
lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống. Truyền thuyết Việt Nam
biểu trưng một triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính nhân đạo,
chan chứa vẻ nhân văn, mà còn tràn đầy tình đồng bào, nghĩa ruột thịt qua hình
tượng “Bọc điều trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào dẫn đến lòng yêu
nước, thương nòi, yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị đạo lý truyền
thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Học giả Henri Bernard Maitre đã ca
tụng nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua đền thờ gọi là Văn miếu. “Văn Miếu không phải để cầu kinh hay làm bùa
phép mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá,
các vị Tiến sĩ với những chuẩn mực đạo đức để con cháu đời sau ghi sâu vào tâm
khảm bài học về đạo làm người Việt Nam, xứng đáng với hoài bão của Tiền Nhân”.
Đối với người Việt, việc thờ cúng Ông bà
Tiên tổ là đạo lý làm người trong đời sống tâm linh của người Việt. Từ xa xưa
người Việt coi trọng đạo nghĩa nên thường nghĩ tới ngày giỗ của người thân hơn
là chú trọng đến ngày “sinh nhật” của mình. Ngày nay, dù giới trẻ quan tâm
nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không quên những ngày kỵ giỗ người thân
trong gia đình. Đạo thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện đạo lý làm người
Việt Nam. Linh mục Cadièrre một thừa sai ngoại quốc đến Việt Nam truyền giáo
phải thốt lên “Việt Nam là một dân tộc có
tinh thần tôn giáo cao độ”.
Học giả Paul Mus nghiên cứu về Việt Nam
cũng thừa nhận rằng “Dân tộc Việt có một
đời sống tâm linh cao, người Việt không làm việc, họ tế tự”. Thật vậy,
người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi
gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng có bàn thờ gia Tiên ở chính giữa
nhà. Trong đời sống tâm linh Việt, Nhất cử nhất động, việc gì cũng tràn đầy
tính chất thiêng liêng, thờ phượng, tế lễ, cúng giỗ với tất cả tấm lòng chí
thành”. Đây chính là điểm đặc thù độc đáo thấm đậm bản sắc dân tộc, tràn
đầy vẻ nhân văn của triết lý văn hoá nhân chủ Việt Nam. Trong đời sống tâm linh
Việt không chỉ hiển hiện ở bàn thờ Gia Tiên mà đền thờ ngự trong tâm thức mỗi
người.“Người Việt không tham dự vào các
buổi lễ để được ban phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện như một người “Tư
Tế” với tất cả tính chất thiêng liêng của một tôn giáo”. Điều này thể hiện
giá trị cao đẹp đặc trưng đời sống tâm linh của người Việt cổ.
Thờ cúng tổ tiên chính là đạo lý làm
người, là cái gì thiêng liêng cao cả truyền từ đời này sang đời khác. Chính
dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng giống Việt. Truyền thống thờ
cúng ông bà không còn là một tập tục, một tín ngưỡng đơn thuần mà đã trở thành
đạo lý của dân tộc. Thờ cúng ông bà được xem như Tổ Tiên chính giáo của đạo làm
người Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX đã ân cần
nhắc nhở “Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn
sáng mắt ông cha không thờ”. Người Việt Nam ai cũng biết uống nước phải nhớ
nguồn vì “Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn đạo
hiếu mới là đạo con ..!” và “ Ơn cha
mẹ thề không lỗi đạo, Thờ sống sao thờ thác làm vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa nay,
Con nguyền ghi nhớ thảo ngay một lòng”.
Đây chính là điểm độc đáo của dòng sống tâm
linh Việt vẫn tiếp nối truyền lưu trong mỗi con người Việt Nam chúng ta hôm nay
và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh đời sống thực tế khổ đau trước mắt, vẫn
hiển hiện một đời sống tâm linh sâu thẳm, thấm đậm tính nhân bản hiện thực cao
đẹp. Chính dòng sống tâm linh đó đã tạo cho mỗi người Việt Nam một quan niệm
sống lạc quan yêu đời, an nhiên tự tại nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh mạng sống cho
nền độc lập thực sự, quyền tự do thực sự và sự ấm no hạnh phúc thực sự cho toàn
dân Việt Nam.
Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm
từ khi lập quốc đến ngày nay trải qua gần một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần
một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa ngoại lai. Trong
suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của một nước lớn đất
rộng người đông cùng với những thủ đoạn thâm độc quỉ quyệt xóa đi mọi dấu vết
cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử
trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ.
Mỗi một triều đại Hán tộc đều chủ tâm thay
đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của gần
một ngàn năm nô dịch văn hóa khiến ta chấp nhận tất cả như một sự thật mà không
một chút bận tâm. Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sử của sự thật dù bị sửa đổi
vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng của chân lý khách quan trước thềm thiên
niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Bước sang thiên niên kỷ thứ ba, ánh sáng
của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán tộc
bành trướng. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng sốt trước cái gọi là
“Nghịch lý La Hy” vì trước đây, nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây
phương là của đế quốc Hy Lạp La Mã, để rồi phải xác nhận đó chính là nền văn
minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi
thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn minh của đại
chủng Bách Việt.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại
toàn bộ lịch sử Việt để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa tan đám mây mờ che
lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Trong lịch sử
nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc
Việt với những thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương đau. Ngay từ thời lập
quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người du mục đã đánh đuổi
Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống phương Nam để rồi
trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải qua gần một ngàn năm đô hộ, với chiến
thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở ra thời kỳ độc
lập của Việt tộc.
Trong suốt trường kỳ lịch sử, tuy bị Hán
tộc xâm lấn phải bỏ trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền văn hóa của Việt
tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán tộc để hình thành “cái gọi là
văn minh Trung Quốc”. Chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên đã
phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy
gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy …”. Vạn
thế sư biểu của Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ, xác nhận
tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung
Khổng Tử đã viết như sau:
“Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là
sức mạnh của phương Nam, người quân tử cư xử như vậy..! Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến
chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo hành xử như thế...”.
Trong kinh “Xuân Thu”, Khổng Tử đã ghi lại
bao nhiêu trường hợp cha giết con, con giết cha, cha cướp vợ của con, con cướp
vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa … Điều này chứng tỏ
Hán tộc du mục vẫn còn dã man mạnh được yếu thua, bất kể tình người, bất kể
luân lý đạo đức. Thế mà chính sử Trung Quốc cứ vẫn miệt thị Việt tộc là man di,
các Thứ sử Thái Thú Hán vẫn lên mặt giáo hóa dân Việt trong khi Bách Việt ở
phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh nông nghiệp từ lâu.
“Vạn thế Sư biểu” của Hán tộc là Khổng Tử
cũng đã phải đem những nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách Việt
phương Nam đặt để thành những tôn ti trật tự, những giá trị đạo lý cho xã hội
Trung Quốc. Tất cả những “San Định” của Khổng Tử được xem như tinh hoa của Hán
tộc đã được chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi bất tác”, chép
lại của tiền nhân chứ không phải do ông sáng tác ra. Ngày nay, sự thật lịch sử
đã được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết các phát minh gọi là
văn minh Trung Quốc, từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh kim loại, kỹ
thuật đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm thuốc súng, kiến
trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền văn minh Bách
Việt. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán đã phải thừa nhận như
sau:
“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất
nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.
Bước sang thế kỷ XX, dân tộc Việt chưa
tháo gỡ được cái ách thống trị của thực dân Pháp thì chủ nghĩa cộng sản đã tràn
vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế khốn cùng. Cộng sản Việt Nam đã núp dưới
chiêu bài giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, tạo cơ hội cho
tư bản nhân danh thế giới tự do nhảy vào can thiệp, ngăn chặn làn sóng đỏ xuống
Đông Nam Á. Hậu qủa là hàng triệu người đã phải hi sinh oan uổng để rồi gần
chín mươi triệu đồng bào đang phải sống dở chết dở dưới chế độ cộng sản bạo tàn
phi nhân. Với chủ trương nô dịch của cộng sản, biết bao thế hệ Việt Nam bị nhồi
nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà hậu qủa là tạo ra những cỗ máy vô
hồn, những con người vô cảm lạnh lùng, mất gốc.
Gần 4
triệu đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên khắp thế giới nên thế hệ con em
chúng ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai mang tính thực
dụng, quên đi bản sắc văn hóa truyền thống Việt chan chứa tình người. Chính vì
vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải phục hoạt văn hóa Việt, phục
hưng minh triết Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ truyền bá văn hóa
“Trung Quốc” đang được “những tên Thái thú mới”, “xác Việt hồn Tàu” đang thi
hành mệnh lệnh của quan thầy Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân tộc Việt.
Hơn lúc nào hết, tìm hiểu về huyền thoại Rồng Tiên, khởi nguyên dân tộc Việt Nam thời
Lập Quốc với Quốc Tổ Hùng Vương là một yêu cầu
lịch sử hết sức cần thiết. Trong ý hướng đó, chúng tôi cố gắng tóm gọn lịch sử
Việt từ thời lập quốc cho đến ngày nay trong “Việt Nam Nước Tôi” để thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ tường tận lịch
sử Việt Nam. Khi thế hệ con em chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn hoá truyền thống
của dân tộc Việt, về đời sống văn hoá tâm linh Việt, về những lễ tết, hội hè
đình đám của dân tộc Việt thì thế hệ con em chúng ta sẽ thấy rõ hơn giá trị cao
đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống nhân bản Việt. Con em chúng ta có quyền tự
hào là “con Rồng cháu Tiên” của một dân tộc có lịch sử lâu đời như danh nhân
văn hóa Nguyễn Trãi đã tuyên xưng: “Chỉ
nước Đại Việt ta từ trước, mới
có nền văn hiến ngàn năm”.
Chúng ta phải làm sao xứng đáng với tiền
nhân, chúng ta phải làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với anh
linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn thể đồng bào trong nước và Hải
ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời sông núi
để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm vóc, xứng danh ngàn năm dòng
giống Lạc Hồng.
Chúng ta hãnh diện được làm người Việt Nam
thuộc một đại chủng lớn của nhân loại để ngẩng cao đầu sánh vai cùng các cường
quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại. Chính niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc lòng yêu nước của toàn thể
đồng bào Việt Nam chúng ta, nhất là thế hệ trẻ trong
nước và Hải ngoại để vươn lên làm một cuộc cách mạng Đại Việt Nam: “Cách Mạng
Hóa-Hiện Đại Hóa Việt Nam”. Điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc
chúng ta một thế hệ trẻ có đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành một cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật siêu vượt, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng
các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Trong ý hướng đó, chúng tôi viết Quốc Tổ
Hùng Vương cùng với quyển Việt Nam Nước Tôi với một mong muốn tha thiết được
giới trẻ đón nhận như một quyển sách gối đầu giường, một “Cẩm Nang” của một người
Việt Nam yêu nước để chúng ta cùng nhau góp phần chuyển đổi lịch sử để Cứu
Quốc, Kiến Quốc và Hưng Quốc.
Tổ Quốc Việt Nam Trường
Tồn Dân Tộc Việt Nam Bất Diệt Việt Nam Muôn Năm
Mùa Giỗ Tổ 4.893 Việt Lịch
(2014 DL)
PHẠM TRẦN ANH
VIET
NAM
Chùa Một Cột ở Hà
Nội.
Thành Nội Huế
CHƯƠNG MỘT
TRUYỀN THUYẾT
KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC
TRUYỀN
THUYẾT
KHỞI
NGUYÊN DÂN TỘC
Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử
được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi của dân tộc
đó. Nữ sĩ Blaga Dimitrova cũng như nhiều học giả ngoại quốc khác đã hết sức
ngạc nhiên xen lẫn thán phục khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam: “Việt Nam là một dân tộc mà huyền thoại và
hiện thực đan quyện hòa lẫn với nhau đến độ khó có thể phân biệt đâu là huyền
thoại đâu là hiện thực nữa”. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về cội nguồn
huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm
đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Người Việt Nam, từ em bé
thơ ngây đến cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả đến bác nông dân chân lấm tay
bùn, không ai mà không một lần nghe truyện cổ tích họ Hồng Bàng về “Con Rồng
cháu Tiên”. Là người Việt Nam, chúng ta hãnh diện về nguồn cội Rồng Tiên với
thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” đẹp như một áng sử thi mở đầu thời kỳ dựng
nước của dòng giống Việt.
Truyện họ Hồng Bàng về khởi nguyên dân tộc,
lần đầu tiên được Hồ Tông Thốc chép trong tác phẩm “Việt Nam Thế Chí” vào thế
kỷ XIV đời Trần nhưng sách đã bị quân Minh tịch thu tiêu hủy nên không còn nữa.
Những bộ sử đầu tiên được biết là bộ Sử Ký 史記 của
Đỗ Thiện đời nhà Lý, “Việt Chí” 越志 của Trần Phổ đời Trần và bộ
“Đại Việt Sử ký” 大越史記 do Lê văn Hưu biên soạn năm
1272 đời Trần Nhân Tông viết gồm 30 quyển chép lịch sử Việt Nam từ thời Triệu
Vũ Đế đến thời Lý Chiêu Hoàng. Cả 3 bộ sách này đã bị quân Minh tịch thu rồi
tiêu hủy nên cũng không còn nữa. Cuối đời Trần, sách Đại Việt Sử lược do một
tác giả vô danh biên soạn bị quân Minh tịch thu tiêu hủy còn bản duy nhất lưu
trữ trong “Thủ Sơn Các Tùng Thư và Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư” đời Thanh. Tiền
Hi Tộ, sử quan triều Thanh khi hiệu đính đã sửa chữa nội dung kể cả tên sách
Đại Việt Sử lược cũng bị sửa lại là Việt Sử Lược. Sử quan triều Thanh Tiền Hi
Tộ đã sửa đổi niên đại thành lập nước Văn Lang, kéo lùi lại hàng ngàn năm hòng
xóa bỏ vết tích quê hương xa xưa của Việt tộc ở Trung Quốc. Với thủ đoạn thâm
độc quỷ quyệt, Tiền Hi Tộ đã xuyên tạc ý nghĩa cao đẹp của sự thành lập quốc
gia Văn Lang, Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập dân tộc thì Tiền Hi Tộ viết
là bất mãn Tô Định bạo tàn nổi lên làm loạn! Đây bản chất thâm độc quỷ quyệt
của Hán tộc xâm lược bành trướng từ xa xưa cho đến ngày nay.
Sử quan triều Thanh là Tiền Hi Tộ đã sửa
đổi xuyên tạc, bóp méo lịch sử để làm giảm ý nghĩa cao đẹp của sự thành lập
quốc gia Văn Lang như sau: “Đến đời Chu
Trang Vương (696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang.
Phong tục thuần hậu, chất phác. Chính sự dùng lối thắt nút. Truyền được 18 đời
đều gọi là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn (505-465 tr. CN.) đã sai sứ tới dụ, Hùng
vương chống cự lại. Cuối đời Chu, Hùng vương bị con vua Thục là Phán đánh đưổi
mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không
thông hiếu với nhà Chu… Cuối đời Tần, Triệu Đà chiếm cứ Uất Lâm, Nam Hải, Tượng
quận, xưng vương đóng đô ở Phiên ngung, quốc hiệu là Việt, tự xưng là Vũ Vương”.1
Đầu thế kỷ XIV, Trần Thế Pháp và Lý Tế
Xuyên đời Trần đã chép lại những truyền thuyết dân gian vào bộ sách “Lĩnh Nam
Trích Quái” và “Việt Điện U Linh” để truyền lưu nguồn gốc giống dòng Việt cho
đời sau. Trần Thế Pháp tác giả Lĩnh Nam Trích Quái viết: “Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc chưa có quốc sử để ghi chép cho nên nhiều
truyện bị mất đi, may còn truyện nào không bị thất lạc được dân gian truyền
miệng thì đó là SỬ ở trong truyện chăng? Than ôi, Lĩnh Nam Liệt truyện sao
không khắc vào đá, viết vào tre mà chỉ truyền tụng ở ngoài bia miệng?! Từ đứa
trẻ đầu xanh đến cụ già tóc bạc đều truyền tụng và yêu dấu, lấy đó làm răn, rất
quan hệ đến cương thường, phong hoá. Ôi! Há đâu phải là điều lợi nhỏ ?”.
Năm 1329, Lý Tế Xuyên viết Việt Điện U
Linh cũng ấp ủ hoài bão bảo vệ truyền lưu truyền thuyết về nguồn cội dân tộc.
Lý Tế Xuyên viết: “Xem truyện họ Hồng
Bàng thì hiểu lai do việc khai sáng nước Hoàng Việt. Trời đã sai chim huyền
điểu giáng thế sinh ra vua Thương thì hẳn có việc trăm trứng nở thành trăm con
trai chia trị Nam quốc. Truyện họ Hồng Bàng không thể mất được”. Học giả Lê
Quý Đôn trong “Kiến văn Tiểu lục” viết năm 1777 đã nhận định: “Hồi đầu niên hiệu Khai Hựu (1329-1341) nhà
Trần, Lý Tế Xuyên phụng mệnh chép Việt Điện U Linh tập, ghi đền miếu thờ các vị
thần, có trình bày hạo khí linh tích 8 vị Đế vương Lịch đại và 12 vị Nhân thần.
Sách này lời văn trang nghiêm, sự việc xác thực, cũng tỏ ra tài nhà sử học lành
nghề. Trong sách có dẫn Giao Châu ký của Tăng Cổn, Sử ký của Đỗ Thiện và truyện
Báo cực. Những sách này đều không còn thấy lưu truyền ..!”.
Mãi đến đời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên mới
chính thức đưa thời đại Hùng Vương vào bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越史記全書.2 Quan niệm
của ông khi viết sử là để “Xét rõ nguồn
gốc xưa nay của trị loạn để bạo biếm khen chê răn đời”. Ngô Sĩ Liên tuy mới
chép thời đại Hùng Vương trong phần ngoại kỷ chứ chưa chính thức ghi vào chính
sử cốt ý để cho thế hệ đời sau soi sáng cội nguồn qua các công trình nghiên cứu
để minh nhiên lý giải nguồn gốc dân tộc. Sử gia Ngô Sĩ Liên viết “Nước Đại Việt ta ở về phía Nam Ngũ Lĩnh,
thế là Trời đã chia bờ cõi Nam Bắc hẳn hòi. Thủy tổ của ta là con cháu Thần
Nông. Trời đã sinh ra vị chân chúa vì thế mới cùng Bắc triều đều làm chúa Tể
một phương”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết tiếp về họ Hồng Bàng như sau: “Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là
Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Đế Minh đi tuần
du phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vụ Tiên nữ sinh ra Vương (Lộc Tục). Vương
là bậc Thánh trí thông minh. Đế Minh yêu quý lạ, muốn cho nối ngôi. Vương cố
nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh nên Đế Minh lập Đế Nghi là con trưởng
nối dòng trị phương Bắc và phong cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam,
đặt tên nước là Xích Quỷ. Vương lấy con gái Chúa Động Đình tên là Thần Long,
sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm, nhà vua lấy con gái của
Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm trai. Tục truyền là sinh ra trăm trứng, ấy
là Tổ của Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu
Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khắc nhau, sum hợp
thật khó” nên phải chia tay, năm chục con theo mẹ về núi, năm chục con theo cha
về miền Nam. Có sách chép là về biển Nam. phong
con cả là Hùng Vương nối ngôi”.3
Truyền thuyết thoạt nghe có vẻ hoang đường
huyền hoặc thế nhưng, vấn đề là chúng ta phải đặt mình vào thuở ban sơ cách đây
mấy ngàn năm mới thấy rõ Tổ tiên ta đã sống ra sao và suy nghĩ thế nào ở thời
cổ đại? Từ đó mới có thể hiểu được những gì mà Tổ tiên ta đã gửi gấm cho chúng
ta qua bức thông điệp lịch sử hàng ngàn năm đó. Làm sao có chuyện trứng nở ra
người? Chi Âu Việt của người Việt cổ chọn vật linh biểu trưng là chim nên mẹ Âu
phải đẻ ra trăm trứng. Chim Phượng Hoàng của người Việt tung cánh bay theo
hướng mặt trời, diễn tả ý niệm người Việt thiên cư dần về hướng Đông xuống miền
bể, mặt khác chim bay lên trời được thăng hoa với hình tượng Tiên của mẹ
Âu.
Mỗi dân tộc đều có những truyền thuyết độc
đáo mang sắc thái đặc thù biểu trưng riêng của dân tộc đó. Ngay cả những dân
tộc mà ngày nay được xem là văn minh cũng đều có một con vật biểu trưng cho
dòng giống. Ấn Độ chọn con voi, Tàu chọn con cọp, Pháp chọn con gà trống
Gaulois, Anh chọn con sư tử, Mỹ chọn con chim ưng (đại bàng) nên Hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ lấy chim đại bàng làm quốc huy cho cả nước.
Theo cơ cấu luận thì Sử ký là sử
hàng ngang ghi chép các biến cố, các sự kiện cụ thể với những con người cụ thể
theo năm tháng, còn Huyền sử được gọi là sử hàng dọc mang tính tâm linh, xoay
quanh những tác động lý tưởng biểu thị bằng những hình tượng nguyên sơ giàu phổ
biến tính. Những hình tượng này tiềm ẩn trong đời sống tâm linh của một dân tộc
như trong huyền sử Rồng Tiên thì Âu Cơ chỉ là hình tượng nguyên sơ. Mẹ Âu Cơ là
chi tộc thờ chim của Việt tộc nên việc mẹ đẻ ra một cái bọc trăm trứng là chuyện
bình thường cũng như cái bọc không chỉ nói về cái bọc mà nó biểu trưng cho ý
nghĩa của 2 chữ đồng bào cùng chung một bào thai của mẹ Âu Cơ. Huyền sử nói
trăm con không nhất thiết phải là một trăm mà hàm ý số nhiều và quan trọng nhất
là thư tịch cổ Trung Hoa chép về cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật
lịch sử của huyền thoại mà ta cứ tưởng là huyền hoặc hoang đường.
Ngày nay không ai phủ nhận được giá trị
của huyền thoại và truyền thuyết được
coi như lịch sử dân gian mà đôi khi nó có giá trị trung thực hơn cái gọi là
chính sử của các chế độ độc tài xưa và nay. Beaudelaire một thi sĩ nổi tiếng đã
nhìn nhận sức mạnh của truyền thuyết huyền thoại vì đó là “Sử cô đọng của các dân tộc”. Đại văn hào Pháp Victor Hugo khi viết
“Truyền Kỳ các thời đại” ông đã tìm về nguồn cội, khai thác các truyền thuyết
thần thoại xa xưa vì theo ông, đó là “Lịch
sử được lắng nghe ở ngưỡng cửa của truyền thuyết. Truyền kỳ có phần nào hư cấu
nhưng tuyệt đối không có ngụy tạo”. Thật vậy, truyền thuyết tự thân nó
không phải là lịch sử biên niên nhưng truyền thuyết là có thật, nó phản ảnh
những ý nghĩa có thật của một thời lịch sử ban sơ mà người xưa ký thác vào đó
dưới lớp vỏ hư cấu huyền hoặc để truyền lưu gửi gấm cho những thế hệ sau.
Laurens va de Post đã xem huyền thoại là di sản thiêng liêng nhất vì nó diễn tả
tinh thần dân tộc ở mức độ cao nhất. Micia Eliado cũng cho rằng “Huyền thoại là gia sản quý báu nhất vì tính
chất thiêng liêng điển hình và mang lại ý nghĩa sống cho cả một dân tộc”.
Vấn đề là phải làm sao hiểu được những ý
tưởng uyên nguyên, những tâm linh sâu thẳm hàm tàng ẩn chứa qua những hình
tượng nguyên sơ như P. Ricoeur đã viết:“Tất
cả đã được nói rồi trong các thần thoại, vấn đề chúng ta là chỉ còn phải tìm
hiểu”. Triết gia thời đại Jung đã viết:“Truyền
thuyết huyền thoại hàm chứa những ý nghĩa lịch sử trung thực nhất, vì nhân vật
thần thoại là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của một thời đại tạo dựng tỏa
sáng nhưng nó phải chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý giải.
Huyền thoại là đạo sống của một dân tộc”. Chính vì vậy, Wallace Cliff khẩn
thiết kêu gọi:“Nếu dân tộc nào để mất đi
huyền thoại là đánh mất mạch nối vào nguồn cội quá khứ của tổ tiên và cũng sẽ
mất luôn căn bản cho việc xây dựng tiền đồ của dân tộc đó”. Lịch sử đã
chứng minh nhận định của Karl Jung là “Dân
tộc nào quên đi huyền thoại thì dân tộc đó dù là những dân tộc văn minh nhất
sớm muộn cũng sẽ tiêu vong”.
Trong lịch sử loài người, nhiều cộng đồng
người đã không tồn tại được với thời gian vì không có truyền thuyết khởi nguyên
của dân tộc. Huyền thoại là di sản thiêng liêng nhất, quý báu nhất mà tiền nhân
đã để lại cho hậu thế. Huyền thoại là mạch sống nối cội nguồn quá khứ với thế
hệ hiện tại và mai sau, là gia sản cao quý vô giá ghi nhận những cảm nghiệm nội
tâm của người xưa đã thực chứng suốt dòng vận động của lịch sử. Thật vậy, huyền
thoại Rồng Tiên đã thấm sâu trong lòng mỗi người chúng ta để rồi trở thành đạo
sống của dân tộc Việt.
Chúng ta nghiên cứu huyền sử, tìm về nguồn
cội dòng giống qua những gửi gấm của người xưa là một việc làm hết sức đúng đắn
và cần thiết. Vấn đề đặt ra là với một thái độ trân trọng, một phương pháp khoa
học, nhưng không có quyền áp đặt những suy nghĩ của chúng ta hôm nay lên những
ý tưởng của người xưa mà chúng ta phải đặt mình hoàn cảnh lịch sử thời đó để có
thể hiểu được cái gọi là “lịch sử sống động của dân gian”. Chúng ta phải bỏ qua
những yếu tố thần thoại, loại ra những chi tiết hư cấu để chú tâm vào những hàm
tàng ẩn chứa trong nội dung. Chúng ta phải đặt mình vào hoàn cảnh xã hội đời
sống tâm linh của người xưa, mới thấy được cái tinh túy cốt lõi tiềm tàng trong
truyền thuyết. Khi chúng ta cảm nhận ít nhiều nội dung của bức thông điệp ngàn
năm, chúng ta tìm hiểu, phân tích, đối chiếu với nguồn sách sử cổ. Sự thật lịch
sử sẽ được phục hồi với những chứng cứ khoa học thuyết phục như Khảo cổ, Ngôn
ngữ, Dân tộc, Chủng tộc học, Khảo Tiền Sử, Cấu trúc mã di truyền DNA và Đại
Dương Học.
RỒNG PHƯỢNG VIỆT NA
RỒNG ĐÁ ĐỀN CỔ LOA
CHIM PHƯỢNG HOÀNG
BỨC
THÔNG ĐIỆP
HÀNG
NGÀN NĂM LỊCH SỬ
Nhiều học giả ngoại quốc khi nghiên cứu về
lịch sử Việt Nam đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn thán phục dân tộc Việt Nam, một
dân tộc mà huyền thoại và hiện thực đan quyện hoà lẫn với nhau đến nỗi khó có
thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là hiện thực nữa. Mỗi dân tộc đều có những
truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử
thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt
tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân văn
của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử “con Rồng cháu Tiên” là niềm tự
hào của nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì không ai không một lần nghe
truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai trong chúng ta mà không biết về nguồn
cội Rồng Tiên với thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời kỳ dựng nước của
dòng giống Việt. Kể từ khi Ngô Sĩ Liên dẫn truyện họ Hồng Bàng trong “Lĩnh Nam
Trích Quái” để chép kỷ Hồng Bàng trong bộ Đại Việt sử ký Toàn Thư, thì lần đầu
tiên huyền thoại Rồng Tiên, nguồn gốc của dân tộc Việt được ghi trong lịch sử
nước ta.
Truyền thuyết Việt Nam không mang tính
thần thoại hoang đường của chủ nghĩa duy thần cuồng tín hoặc duy nhân thái quá
để tự mãn cho rằng chỉ có con người làm nên tất cả, chỉ có cái ta duy lý đó đã
dẫn tới quan niệm độc tôn, độc hữu của phương Tây.
Truyền thuyết Việt Nam không mang tính
huyền thoại ly kỳ như truyền thuyết về tình yêu của những anh hùng không thực
và giai nhân tuyệt sắc của Ấn Độ.
Truyền thuyết Việt Nam cũng không thiên về
sức mạnh của vật chất, của bắp thịt siêu nhiên kiểu Samson.
Truyền thuyết Việt Nam cũng không tôn thờ
những thần thánh “thế tục hơn cả thế tục” kiểu thần Ouranos loạn luân vô đạo,
thần tửu sắc Baccus, nữ thần sắc đẹp Vénus dâm dục, thần quan thầy thương mại
Mercure tay cầm túi tiền, tay cầm dùi đục như thần thoại La Hy phương Tây và
những nước cận Đông khác.
Truyền thuyết Việt Nam, nói đúng hơn đó là
truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng thực chất
lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống.
Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một
triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính nhân đạo, chan chứa vẻ nhân
văn mà còn tràn đầy tình đồng bào, nghĩa ruột thịt qua hình tượng “Bọc điều
trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào dẫn đến lòng yêu nước, thương nòi,
yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị đạo lý truyền thống của nền văn
minh đạo đức Việt Nam. Gạt sang một bên những hư cấu huyền hoặc, chúng ta cố gắng
tìm hiểu những ẩn ý sâu xa hàm tàng trong truyền thuyết gợi mở cho chúng ta
giải mã bức thông điệp Rồng Tiên từ ngàn xưa gửi cho hậu thế Việt Nam.
Tự thân truyền thuyết đã chiếu giải trung
thực ý nghĩa của những sự kiện lịch sử sau:
VIỆT
TỘC HẬU DUỆ CỦA ĐẾ THẦN NÔNG
Truyền thuyết đã được xác nhận bởi nguồn
sách sử cổ Trung Quốc là dòng Thần Nông phương Bắc định cư ở Bắc lưu vực Hoàng
Hà, truyền đến đời Du Võng tràn xuống phương Nam giao chiến với Xi Vưu (Li Vưu)
cuối cùng bị Hoàng Đế đánh đuổi và chết ở Lạc Ấp. Dòng Thần Nông phương Nam do
Kinh Dương Vương, thủ lĩnh của liên minh bộ lạc ở Châu Kinh và Châu Dương ở
vùng lưu vực sông Dương Tử hình thành nhà nước Xích Quy ban sơ của Việt tộc.
Truyền thuyết cho ta biết là các chi tộc Việt vẫn chung sống hài hòa, điều này
được thể hiện qua việc Lạc Long Quân con của Kinh Dương Vương, dòng Thần Nông
phương Nam lấy công chúa Âu Cơ con của Đế Lai dòng Thần Nông phương Bắc. Thực
tế lịch sử với sự hiện hữu của Đế nghiêu, Đế Thuấn, Đế Vũ lập ra nhà Hạ của
Việt tộc ở phía Bắc hạ lưu sông Hoàng Hà có quan hệ mật thiết với các nước Bách
Việt ở phương Nam sông Hoàng Hà. Đây chính là sự hợp nhất 2 dòng Thần Nông Bắc
và Nam Hoàng Hà để truyền lưu mãi tới ngày nay. Đây chính là cốt lõi của vấn
đề, ý nghĩa cao cả của việc Lạc Long Quân lấy Âu Cơ chính là để nói lên sự hợp
nhất của 2 dòng Thần Nông Bắc và Nam mà người xưa muốn nhắn gửi cho đời sau.
Truyện cổ tích họ Hồng Bàng kể lại: “Lạc Long Quân thay cha trị nước, dạy dân cày
cấy, ăn mặc. Trong nước từ đây mới có thứ tự quân thần, tôn ti trật tự, xã hội
mới có luân thường đạo lý giữa cha con, vợ chồng”. Sách sử cổ ghi rõ là Bố
Lạc dạy dân cách cày cấy ăn mặc, vua tôi vợ chồng có luân thường đạo lý. Người
Việt gọi phụ (cha) là Bố, gọi vương (vua) là Quân. Truyền thuyết cũng cho biết
rằng Việt tộc là hậu duệ của Viêm đế Thần Nông mà hình tượng là Totem phức thể
“Đầu người, thân trâu” là ông Tổ của nghề nông. Truyền thuyết kể lại rằng Thần
Nông uốn gỗ làm “lỗi” đẽo gỗ làm “trĩ”, những dụng cụ này dùng sức kéo để vạch
thành luống đất, dạy dân cày cấy. Cổ sử chép chi Lạc bộ Trĩ định cư ở Sơn Đông
chính là chi Lạc có vật biểu là chim, làm ruộng trồng lúa nước mà sử Trung Quốc
xuyên tạc bộ Trĩ còn gọi là bộ Trãi chỉ côn trùng để miệt thị dân tộc Việt.
Theo
”Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” thì chỉ có nhị hoàng chứ không phải tam hoàng
như sách sử Trung Quốc chép từ trước đến giờ. Phục Hy còn gọi là Đế Thiên
(2698-2599 TDL), họ Hiên Viên có tên thụy là Thái Hạo thờ rồng. Truyền thuyết
dân gian kể rằng bà Hoa Lư nhân khi đi qua đầm Lôi Trạch, dẫm lên vết chân khổng
lồ của Lôi Thần, vị thần Rồng cảm ứng mà sinh ra Phục Hy. Là con của Thần Rồng
nên Phục Hy mang hình tượng đầu và mình là người, phần dưới là thân Rồng. Phục
Hy và Nữ Oa cũng nửa người nửa Rồng mà trong một bức phù điêu chạm nổi hình hai
người, đuôi quấn lấy nhau, tay Phục Hy cầm tượng mặt trời, tay Nữ Oa cầm tượng
mặt trăng biểu tượng cho Âm Dương giao hòa, tương sinh tương khắc của Âm Dương
Dịch Biến Luận. Phục Hy truyền ngôi cho con là Thần Nông tức Đế Thần, họ Khương
tên thụy là Thiếu Hạo thờ chim. Như vậy, nhị Hoàng gồm Phục Hy họ Thái Hạo thờ
Rồng và Thần Nông họ Thiếu Hạo thờ chim là của Việt tộc.
Truyền thuyết cho chúng ta biết rằng Việt
tộc là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông mà từ xưa đến nay chúng ta cứ cho là của
Hán tộc. Truyền thuyết cũng nói tới dòng Thần Nông phương Bắc, dòng Thần Nông phương
Nam nên một số người hiểu sai lầm rằng người Trung Quốc (Tàu) là dòng Thần Nông
phương Bắc, Việt Nam là dòng Thần Nông phương Nam nên cho rằng ta với Tàu là
cùng một gốc và người Việt Nam là từ người Tàu mà ra. Chính vì vậy, việc tìm
hiểu về cội nguồn dân tộc từ truyền thuyết, từ những mảnh vụn của lịch sử để
phục hồi sự thật là một điều hết sức cần thiết. Chân lý khách quan của lịch sử
sẽ sáng tỏ, trả lại những gì sự thật lịch sử cho lịch sử chính là ước vọng ngàn
đời của tất cả chúng ta, những con dân đất Việt hôm nay.
Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi tiếng
được xem là đại biểu cho sử quan chính thống của Hán tộc đã viết Hoàng Đế, thủ
lĩnh của liên minh bộ lạc trung nguyên là người mở đầu lịch sử Trung Quốc mà
không hề nhắc gì tới Phục Hy, Thần Nông. Ngày nay, các nhà Trung Hoa học đều
thống nhất quan điểm là trước khi Hán tộc tràn xuống chiếm lĩnh Trung nguyên
thì tộc người mà cổ sử Trung Quốc gọi là “Di Việt” đã làm chủ trung nguyên từ
lâu. Các học giả uyên bác của Trung Quốc như V. K.Tinh, Wang Kwo Vu đều xác
định là tất cả huyền thoại về các vị vua cổ xưa đều không thấy ghi chép gì
trong “Giáp cốt” đời Thương. Nếu Hoàng Đế là người khai mở lịch sử Trung Quốc
thì chắc chắn phải ghi rõ trong giáp cốt đời Thương. Thực ra, sự tích tên tuổi
của các nhân vật huyền sử Phục Hy, Thần Nông mới được nhắc tới trong sách sử
vào thời Xuân Thu Chiến quốc là thời kỳ hưng thịnh của Bách Việt. Nhóm Tân học
“Nghi Cổ Phái” do nhà văn Quách Mạt Nhược chủ xướng đã chính thức bãi bỏ thời
Tam Hoàng, Ngũ Đế là của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc chỉ thực sự bắt đầu từ
triều Thương, Chu. Chính Lương Khải Siêu, nhà chính trị nổi tiếng một thời của
Hán tộc cũng phải thừa nhận là lịch sử Trung Quốc mới chỉ có khoảng 4 ngàn năm
nay mà thôi.
Thời Xuân Thu là thời kỳ phục hưng của
Việt tộc với sự trổi dậy của các quốc gia Bách Việt, hết Ngô đến Việt xưng “Bá”
rồi tới Sở lãnh đạo liên minh 6 nước trung nguyên chống Tần giành quyền thống
lĩnh trung nguyên. Chính vì vậy, thời kỳ này mới xuất hiện các nhân vật huyền
sử Việt từ Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế) tới Nghiêu Thuấn, Vũ
nhà Hạ của Việt tộc. Chính Khổng Tử, người được xem là bậc thầy muôn đời của
Trung quốc cũng biết rõ điều này nên chưa hề nhắc tới nhân vật Hoàng Đế của
Trung Quốc mặc dù Khổng Tử đã xác nhận rõ là theo phò triều Chu.
Trong các tác phẩm Cổ sử Khảo, Tam ngũ
Lịch, Đông Kỷ, Đế vương Thế kỷ thì tất cả đều khẳng định rằng Thần Nông có liên
quan huyết thống với Việt tộc. Nói cách khác, Việt tộc chính là hậu duệ của
Thần Nông. Cổ thư Trung Hoa chép đời Nghiêu Thuấn đánh dẹp họ Cộng Công của Hán
tộc vì đã tranh ngôi với Chúc Dung là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông. Vua các
nước Trịnh và hoàng tộc một số nước ở bán đảo Sơn Đông như Tề, Lỗ, Trần đều
nhận họ là con cháu Thần Thái Sơn và lấy họ Khương của Thần Nông. Cổ sử ghi lại
là năm thứ sáu đời Chu Thành Vương 1100 TDL, Việt Thường cử sứ giả đến triều
Chu biếu một con chim Bạch Trĩ, quan Trủng Tể Chu Công Đán nhớ lời Hoàng Đế có
lời thề rằng: “Giao Chỉ ở ngoài phương
xa… không được xâm phạm”.
Nguồn sử liệu trên cũng hé mở cho chúng ta
thấy là Hoàng Đế có liên hệ huyết thống với Việt tộc. Theo Từ Hải thì Hoàng Đế,
Xi Vưu (Li Vưu) đều là những thị tộc trưởng nên sở dĩ có chiến tranh là để
giành ngôi vị thủ lĩnh mà thôi. Gần đây, học giả Eberhard một nhà Trung Hoa học
nổi tiếng đã công bố một sự thật là vào khoảng năm 450 TDL, một người viết sử
đã đưa Hoàng Đế nguyên là một vị thần
trong địa phận Sơn Đông lên làm vị vua đầu tiên của Hán tộc. Nếu Hoàng
Đế là một nhân vật có thật thì Đế Hoàng ở Sơn Đông phải là người Việt cổ, hậu
duệ của Thần Nông. Sơn Đông là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trãi (bộ Trĩ) của Việt
tộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di nên vị thần Đế Hoàng chính là người
Việt cổ nhưng sử gia Tư Mã Thiên nhận là thủy tổ của người Trung Quốc (Hán tộc)
nên viết Đế Hoàng theo cú pháp Hán tự là Hoàng Đế. Truyền thuyết xưa cũng kể
rằng Thần Nông và Hoàng Đế có cùng một ông Tổ là Thiếu Điển. Cổ thư Trung Hoa
cũng chép rằng Thương Hiệt đời Hoàng Đế đã theo dấu chân chim, vật tổ biểu
trưng của Việt tộc mà đặt ra lối chữ gọi là “Điểu Triện”. Đến thời Chu (Trung
Quốc), Thái sử Trứu mới sửa đổi thành lối chữ Đại Triện của Trung Quốc còn gọi
là Trứu Thư. Tất cả các chứng cứ trên đã góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch sử,
phục hồi chân lý khách quan của lịch sử đó là nhân vật Đế Hoàng là người Việt
cổ chứ không phải thủy tổ của Hán tộc như Tư Mã Thiên đã viết. Như vậy, thời
đại “Tam Hoàng, Ngũ Đế” chỉ có Nhị Hoàng gồm Phục Hy họ Thái Hạo thờ Rồng và
Thần Nông họ Thiếu Hạo thờ chim là của Việt tộc. Ngũ Đế gồm Đế Hoàng, Đế Chuyên
Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn đều là người Việt cổ.
Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư ghi về Thần
Nông như sau: “Đế Thần là con Đế Viêm
(con cháu Phục Hy) còn trẻ tự xưng là Thần Nông. Đế Thần cai quản từ Trường
Giang trở về Nam. Thần Nông được thừa hưởng sự nghiệp của Tổ Tiên lên ngôi vua
sáng, thi hành chính nhân sáng suốt. Dân chúng một lòng kính yêu. Từ phía Tây
trở xuống, lấy ngọn Phương Lãnh Trầm Đỉnh làm chính và ngọn Linh Sơn, Tiên Lữ,
tiếp đến Phong Châu làm một dải. Ông dạy dân làm ruộng là chính. Thần Nông lấy
lá chữa bệnh, cứu dân độ thế… Thần Nông phát minh ra nghề cấy trồng lúa nước và
phát minh sáng chế ra lưỡi cày bằng gỗ cứng để cho dân làm ruộng. Người dân làm
ruộng, cày cấy lúa nước thường lấy vỏ cây che thân để chắn bùn gọi là cái
thường (tức cái váy, cái xiêm) lan rộng từ Nam đến Bắc. Do đó người ta thường
gọi là họ Việt Thường”.
Công trình nghiên cứu mới đây nhất về Hán
ngữ và các phương ngữ Bách Việt ở Trung nguyên đã xác định chỉ có người Hakka
(Hẹ) là Lạc bộ Trãi ở vùng sông Bộc và bán đảo Sơn Đông có phát âm tương tự với
Hán Việt và tiếng nôm của Việt tộc [Ngieu] còn tiếng Quan Thoại và các phương
ngữ khác đọc khác.4 Sự kiện này chứng tỏ thêm rõ là Đế Nghiêu là
người Việt cổ. Cổ sử Trung Hoa cũng cho biết họ Đào Đường tức Đế Nghiêu đóng đô
ở Bình Dương thuộc Sơn Tây. Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn đóng đô ở Bồ Bản
cũng thuộc Sơn Tây, Thuấn truyền ngôi cho Vũ lập ra nhà Hạ. Mạnh Tử xác nhận
vua Thuấn là người Đông Di và từ điển Từ Hải cũng xác định là tổ tiên và con
cháu Thuấn đều được phong ở đất Đông Di. Thế mà Tư Mã Thiên, sử quan chính
thống Đại Hán lại bao biện cho rằng Thuấn bị xem là người Đông Di vì thói quen
hồi đó gọi là như thế. Luận điệu này không có tính cách thuyết phục. Tại sao
lại có thói quen gọi một người đồng chủng nhất là một vị vua là rợ Đông Di?
Chính bản thân Tư Mã Thiên chỉ can gián vua mà đã bị tội “Cung Hình” phải cắt
bỏ bộ phận sinh dục huống chi gọi vua là man di mọi rợ, chắc chắn phải bị tru
di tam tộc! Trong khi đó, chính sách cổ Trung Hoa chép là vua Thuấn lấy vợ Việt
và về ở rể tại nhà vợ. Sách Lễ Ký viết: “Đế
Thuấn là một nông dân Việt ở Lôi Trạch đã phát minh ra đàn huyền 5 dây để ca
bài Nam Phong và ông Quy chế ra nhạc để thưởng chư hầu”.
Theo Mã Đoan Lâm trong sách “Văn hiến
Thông khảo” thì lúc đầu Tam Miêu không chịu phục nên vua Thuấn đã sai Vũ đi
đánh cũng không được nên Thuấn chế ra đàn huyền 5 dây để hát bài Nam Phong. Cổ
thư chép là cả Vua Thuấn và ông Vũ đều mặc áo lông chim rồi cầm khiên múa điệu
vũ Li Vưu.5 Cổ thư chép vua
Vũ được ban cho “Cửu Trù” cũng là “Cửu Đỉnh” nên vua chia nước ra 9 châu. Kim
Định trích dẫn Danses kể lại truyền thuyết về vua Vũ khi đi trị thuỷ, đào sâu
xuống lòng sông thì gặp mả của Phục Hy, khi mở ra thấy Phục Hy đang quấn đuôi
Nữ Oa. Vua Đại Vũ cũng được ban cho sách “Lạc thư” cũng trên dòng sông Lạc.
Miền Trung và Hạ lưu sông Hoàng Hà có 2 con sông cùng có tên là sông Lạc. Một ở
ngã ba Tam Giang Bắc của người Việt cổ chi Lạc bộ Chuy ở vùng Thiểm Tây, Sơn
Tây và một ở Bắc tỉnh Hà Nam viết với bộ Thuỷ. Hai thuỷ danh gắn liền với tộc
danh đã chứng tỏ vua Đại Vũ là người Việt vì chỉ có ông Vũ mới được thiên duyên
là rùa thần nổi lên trên sông Lạc, đội quyển sách “Lạc thư” có ghi 9 điều khoản
để trị nước. Nói cách khác, huyền sử cho chúng ta thấy rằng quyển sách đó là
tinh hoa Việt bao gồm “Hồng phạm Cửu trù” với “Lạc Thư” để vua Vũ lập ra nhà Hạ
của Việt tộc.
Vấn đề gốc tích vua Vũ lại sáng tỏ khi cổ
sử Trung Hoa còn ghi rõ là năm Quý Tỵ (2.198 TDL), vua Đại Vũ nhà Hạ hội chư
hầu ở Cối Kê thuộc U Việt. Năm Quý Mão 2.085 TDL, vua Thiếu Khang nhà Hạ phong
cho con thứ là Vô Dư ở đất Việt. Sử sách còn ghi lại là vua Thuấn tuần du
phương Nam rồi chết ở núi Thương Ngô. Núi Thương Ngô trước tên là núi Cửu Nghi
ở miền Bắc tỉnh Hồ Nam là địa bàn cư trú của Bách Việt. Hai bà vợ đi theo buồn
rầu than khóc rồi chết bên bờ sông Tương nên dân gian lập đền thờ hai bà gọi là
“Tương phi”. Sông Tương bắt nguồn từ Long Uyên chảy vào hồ Động Đình và lên tới
vùng Ba Thục cũng là đất Bách Việt (Bai-Yue). Dân gian còn lập đền thờ Sương
Quân là con gái vua Nghiêu ngay bên hồ Động Đình.
Cổ thư Trung Hoa chép lại rằng vua các
nước Ngô Việt đều tự hào là con cháu Hoàng Đế và vua Đại Vũ nhà Hạ. Chính Tư Mã
Thiên trong “Sử ký” cũng chép rằng tổ tiên của Câu Tiễn, vua nước Việt thời
Xuân Thu là dòng dõi vua Vũ. Hiện ở núi Cối Kê tỉnh Triết Giang Trung Quốc bây
giờ vẫn còn đền thờ vua Vũ, nơi mà ngày xưa vua Vũ đã đến hội chư hầu tại đây.
“Sử Ký” cũng chép rằng vua nước Sở nhận
rằng là hậu duệ của Hoàng đế Hiên Viên. Hùng Dịch người được triều Chu phong cho
ở đất Sở là cháu vua Kinh Man là Chuyên Húc (còn gọi là Xuyên Húc) ông tổ của
nhà Hạ. Cổ thư ghi rõ Chuyên Húc thuộc dòng họ Cao Tân Cao Dương của Việt tộc
còn lưu lại dấu ấn trong sự tích trầu cau. Đế Cốc thay Đế Chuyên Húc lại là
cháu của vua Thiếu Hạo, dòng Thần Nông thờ chim là vật biểu, chính là chi Âu
Việt (tộc thờ chim) của tộc Việt. Đế Nghiêu họ Đào Đường là con thứ của Đế Cốc,
em Đế Chí nhưng vì Đế Chí nhu nhược nên chư hầu tôn Nghiêu lên làm vua lấy hiệu
là Đường Nghiêu. Sự thật lịch sử này sẽ làm đảo lộn tất cả những sử sách kinh
điển của Hán tộc viết theo lý của kẻ mạnh để “Lộng giả thành chân” khiến mọi
người tin theo bao đời nay.
VIỆT
TỘC KẾ THỪA TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
Tư Mã Thiên đại biểu cho sử quan chính
thống của Hán tộc viết Hoàng Đế, thủ lĩnh cộng chủ của liên minh các bộ lạc là
ông Tổ của Hán tộc. Tư Mã Thiên đã để Hoàng Đế đứng đầu ngũ đế gồm Hoàng Đế, Đế
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Theo “Sử ký” thì Hoàng Đế (2700-2600
TDL) là tổ tiên lỗi lạc của Hán tộc ở lưu vực Hoàng Hà. Sau khi đánh thắng bộ
lạc Viêm Đế ở phía Tây và Xi Vưu ở phía Nam trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ
lạc. Từ đó, các sử gia Hán cho rằng Hoàng Đế là Hiên Viên Hoàng Đế là hậu duệ
của Viêm Đế Thần Nông và Hán tộc là người kế thừa triết lý Âm Dương. Thật ra
đây là một sự cố ý mạo nhận theo lý của kẻ mạnh mà thôi.
Sự thật lịch sử chứng minh rằng Hoàng Đế
không phải là người khai mở lịch sử Trung quốc và lịch sử Trung Quốc chỉ mới
bắt đầu từ triều Thương Chu mà thôi. Tự thân triết thuyết Rồng Tiên qua lời
trần tình của Bố Lạc với Mẹ Âu Cơ, 50 con theo Mẹ (Âm) lên núi, 50 con theo Cha
(Dương) xuống miền biển đã thể hiện lý tương sinh-tương khắc, tinh tuý cốt lõi
của triết lý Đông Phương. Truyền thuyết kể lại lời trần tình của bố Lạc với mẹ
Âu: “Ta là giống Rồng đứng đầu thuỷ phủ,
Nàng là giống Tiên người ở trên đất, vốn không ở lâu dài với nhau được. Tuy khí
âm dương hợp lại mà sinh con nhưng giống dòng tương khắc như nước với lửa, khó
bề ở lâu dài với nhau dài lâu được. Nay phải chia ly, ta mang 50 con trai về
Thuỷ Phủ chia trị các nơi, còn 50 con theo nàng về ở trên cao, có việc cùng gắn
bó đừng bỏ rơi nhau! Trăm người con cúi đầu nghe lời bố dặn rồi cùng nhau từ
biệt mà đi ..!”. Như vậy ngay từ thiên niên kỷ thứ 3 TDL, lời nói của bố
Lạc một lần nữa đã chứng minh Việt tộc là người kế thừa sở đắc triết lý Âm
Dương. Sự kiện bố Lạc phân chia bọc trăm trứng ra 2 bộ âm dương vừa tương sinh
vừa tương khắc, tuy hai mà lại là một. Lạc Long Quân (Dương) là Rồng ở dưới
nước nên dẫn 50 con về về miền sông nước (âm) còn Âu Cơ là Tiên (âm) lại dẫn 50
con lên miền cao rừng núi (Dương) theo đúng nguyên lý Dịch là trong âm có
dương, trong dương có âm. Sự thực trên đã minh nhiên khẳng định Việt tộc là
người thừa kế triết thuyết Âm Dương Dịch biến luận khởi từ Phục Hi tới Thần
Nông tức Đế Thần của Việt tộc.
Các công trình nghiên cứu gần đây về nguồn
gốc chữ Việt cổ đã góp phần phục hồi sự thật của lịch sử. Tầm nguyên ngữ nghĩa
của chữ Việt cho thấy sách sử cổ Trung Hoa viết rất nhiều chữ Việt khác nhau,
trong đó có chữ “Việt 易”
là chữ Dịch “易” là mặt
trời (“Nhật 日 Việt”). Tự thân ngữ nghĩa
này đã xác định Kinh “Dịch 易 ” là kinh “Việt 易 ”.6
Sự thật lịch sử này được thừa nhận bởi
chính lịch sử Trung Hoa cổ đại. Sách “Kinh Thư” trong phần mở đầu chỉ đề cập
đến Nhị Hoàng là Phục Hy và Thần Nông. Việc Kinh Dịch chọn 2 quẻ dành cho 2 con
vật Rồng- chim (Tiên) linh thiêng, vật tổ biểu trưng của Việt tộc đã minh nhiên
xác định nguồn gốc xuất xứ của Kinh Dịch. Đến đời Chu, Chu văn Vương tiếp thu
ảnh hưởng của văn hoá Việt rồi biến cải thành Chu Dịch thiên về bói toán chứ
không phải là tinh hoa triết lý Âm Dương Dịch biến luận thể hiện nhân sinh-vũ
trụ quan của Việt tộc.
CỘNG
ĐỒNG BÁCH VIỆT: HIỆN THỰC LỊCH SỬ
CỦA TRUYỀN KỲ “TRĂM TRỨNG NỞ TRĂM CON”.
Chúng ta đang sống trước thềm của thiên
niên kỷ thứ ba của nhân loại nên mỗi khi nghĩ về huyền thoại Rồng Tiên thì
thoạt đầu, ai trong chúng ta cũng nghĩ rằng là truyện huyền hoặc, hoang đường.
Dù có tự hào là con Rồng cháu Tiên nhưng với ý nghĩ đơn giản của đời thường,
chúng ta vẫn hoài nghi vì trên đời làm gì có truyện người đẻ ra trứng, rồi
trứng nở ra người? Với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng nghiêm chỉnh và
với phương pháp nghiên cứu huyền thoại để tự đặt mình vào hoàn cảnh lịch sử
thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong huyền thoại sẽ gợi mở sáng tỏ, minh
nhiên lý giải những vấn nan khúc mắc tự ngàn xưa. Có một thực tế mà chúng ta
phải hiểu rõ đó là tất cả các dân tộc thời cổ đại đều tin tưởng thần linh chở
che trong mọi sinh hoạt cuộc sống. Thật vậy, khi con người vừa bước ra khỏi
thời kỳ ăn lông ở lỗ của thuở hồng hoang để bước vào hình thái xã hội ban sơ,
con người cảm thấy nhỏ nhoi trước sức mạnh kỳ bí của thiên nhiên nên yếu tố
thần linh ngự trị trong mọi sinh hoạt của họ.
Bước sang đầu thiên niên kỷ thứ ba, một số
dân tộc có một nền văn minh tương đối cao nhưng vẫn còn tôn thờ những vật tổ
linh thiêng của họ như dân Ấn vẫn còn thờ bò. Do đó, chúng ta không thể dựa
trên những tập tục cổ của một dân tộc mà đánh giá một cách sai lầm là xã hội đó
kém văn minh, mê tín, hoang đường. Đó là cách nhìn theo quan điểm giả tiến hoá.
Trái lại sự hiện hữu tục thờ vật tổ Totem của một số dân tộc chứng tỏ tính
phong phú đa dạng của nền văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc. Vấn đề là phải
tìm hiểu phần tinh tuý, cốt lõi của nhân vật hình tượng Mẹ Tiên như Jung nói: “sự đúc kết biết bao suy tư của thời đại tạo
dựng độc sáng phải chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý luận”. Một khi tiền nhân thần thọai hóa mẹ Âu là
Tiên thì Mẹ Âu Cơ có thể làm bất cứ điều gì mà người phàm không làm được, đó là
đẻ ra trứng thuộc phạm trù tín ngưỡng nguyên thủy cũng như phạm trù tôn giáo
đòi hỏi phải có niềm tin một cách mặc khải. Gạt sang một bên vấn đề tự tình dân
tộc để tìm hiểu xem tại sao Mẹ Âu lại đẻ ra “trứng”, chúng ta thấy rõ hàm ý sâu
xa của tổ tiên ta. Thật vậy, ý niệm trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem
vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim là một con vật đứng đầu
trong tứ linh: “Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng”. Vì vậy, việc Mẹ Âu Cơ mà
vật tổ biểu trưng là chim thì việc mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người
con trai trên bình diện tâm linh là bình thường không có gì đáng ngạc nhiên cả.
Điều mà chúng ta ngạc nhiên là những gì mà tiền nhân chúng ta, ngay từ thời cổ
đại đã nói tới ý niệm “Trứng” mà gần mười ngàn năm sau, với nền y học hiện đại,
chúng ta mới biết là người phụ nữ có một buồng trứng, khi trứng rụng kết hợp
với tinh trùng sẽ tạo thành bào thai.
Nguồn thư tịch cổ cũng cho ta biết “Lạc bộ
Chuy” là chi tộc Việt từ vùng Cao Nguyên Côn Sơn-Malaya tiến xuống vùng lưu vực
của 3 con sông Hoàng Hà, sông Lạc và sông Vị. Lạc bộ Chuy là chi Việt cổ của họ
Hồng Bàng có vật tổ biểu trưng là chim vì ông cha ta đã theo dấu chim Hồng,
chim Lạc thiên cư xuống vùng trung nguyên khi mực nước biển rút dần. Trước đó,
một nhánh khác tiến xuống vùng núi Dân, Ba Thục cũng được gọi là Châu Phong.
Địa danh Phong Châu ở Bắc Việt Nam cũng chỉ là nhắc lại địa danh cư trú ban đầu
của Việt tộc nơi mà mẹ Âu dẫn 50 con lên núi rồi suy cử người con trưởng làm
vua nước Văn Lang như truyền thuyết kể lại. Âu Cơ và 50 con lên đất Châu Phong,
suy phục lẫn nhau cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy
tên nước là Văn Lang, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ,
Nam tới Hồ Tôn (Chiêm Thành).
Sách “Lĩnh Nam Trích Quái” truyện Thánh
Tản Viên chép rằng đời Chu Noãn Vương, vua Hùng thứ 18, lấy quốc hiệu là Văn
Lang đến ở đất Việt Trì, châu Phong ở Bắc Việt Nam bây giờ. Bản “Hùng Triều
Ngọc Phả” cũng ghi là đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương húy là Đức quân
Lang (660-569 TDL) dời đô xuống Phong Châu Thượng ở Vân Nam Trung Quốc bây giờ.
Sự kiện này phù hợp với cương giới Văn Lang ở trung nguyên Trung Quốc được ghi
trong thư tịch cổ.
Những công trình nghiên cứu địa danh là
những từ ngữ của một tộc người đã ghi tạc vào sông núi nơi địa bàn cư trú của
họ ở một thời điểm nhất định nào đó, cho phép chúng ta kết luận là sự tương
đồng của những địa danh khẳng định địa bàn cư trú của cùng một tộc người trên
vùng đó. Trong số những địa danh thì thủy danh là tên sông, nhất là những con
sông lớn có tên sớm nhất trước cả tên đất nữa. Công trình nghiên cứu cho ta
thấy 2 con sông lớn ở Đông Á và Đông Nam Á là Dương Tử Giang và Cửu Long Giang
(Mékong) có tên gọi giống nhau và cùng bắt nguồn từ một danh từ cổ là “Kang”.
Cách phát âm này hiện được giữ lại trong các tiếng địa phương Quảng Đông và
Thượng Hải. Xét theo tự dạng thì chữ “Giang” lại dùng chữ “Công” để phiên âm.
Tên sông Mékong được gọi bằng nhiều tên theo tiếng nói của các dân tộc mà sông
này chảy qua Trung Quốc gọi là Khung Giang, Lào gọi là Nậm Khoỏng, Cambodia gọi
là Mê Kong và xuống đến lãnh thổ Việt Nam, con sông này được gọi một cách thân
thương là Cửu Long Giang. Tất cả những danh từ như Cửu Long Giang, Nậm Khoỏng,
Mékong, Khung Giang là những dạng tương tự về mặt ngữ âm từ một tên gốc là Kông
mà ra.
Về địa danh, nếu chúng ta ngược dòng thời
gian đi sâu xuống lớp địa danh Hán Việt đầy rẫy nơi vùng cư trú của người Việt
thì có thể thấy còn có một lớp địa danh cổ hơn nữa, đó là lớp tên nôm với yếu
tố cấu thành là từ Kẻ. Những tên nôm với yếu tố Kẻ như thế rất nhiều, có thể
nói rằng hầu hết xã thôn Việt Nam ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ đều có. Tên nôm hiện nay đang bị quên dần đi và ít được dùng đến,
nhưng nó từng tồn tại rất lâu. Trước đây, trong một thời gian dài nó tồn tại
song song với Hán Việt, thông thường tên nôm dùng để gọi, còn tên Hán Việt là
“tên chữ”. Như chúng ta biết, tên đặt ra trước tiên dùng để gọi, đến khi xã hội
phát triển ở mức độ khá cao mới nảy sinh nhu cầu ghi chép. Hơn nữa xét tương
quan ngữ âm giữa các cặp tên nôm và tên chữ thì chúng ta thấy rõ là tên chữ
được đặt ra bằng cách phiên âm tên Nôm và trong một số trường hợp bằng cách
dịch nghĩa nữa. Điều này một lần nữa khẳng định nhu cầu ghi chép là điều kiện
xuất hiện tên Hán Việt.
Đặc biệt trong nhiều tên làng Việt Nam,
chữ Kẻ trong những tên nôm được phiên âm ra tên Hán Việt bằng từ Cổ những địa
danh có chữ “cổ” đứng đầu rất phổ biến. Địa danh có chữ Cổ còn thấy rải rác ở
Cam Túc, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, nhưng tập trung nhất vẫn là vùng Lưỡng
Quảng. Như vậy tên nơi cư trú có thành tố “Kẻ” đứng đầu trong địa danh học cần
đặc biệt lưu ý khi xét vùng đất cổ của cư dân Văn Lang, nó được tìm thấy ở một
mức độ tập trung khá cao tại miền đất bao gồm miền Bắc Việt Nam và vùng Lưỡng
Quảng hiện nay. Địa bàn phổ biến địa danh có chữ “Kẻ” xưa và “Cổ” hiện nay có
thể trải rộng ra nhiều tỉnh thuộc Hoa Nam, nhưng chúng ta đều biết địa bàn phân
bổ của địa danh, càng rộng bao nhiêu thì khởi điểm của loại địa danh đó càng cổ
bấy nhiêu. Rất có thể vùng đất tập trung địa danh thuộc nước Văn Lang như
truyền thuyết cho biết.7
Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ “Lang” cho
chúng ta những nhận định chính xác hơn về địa bàn cư trú của người Việt cổ cũng
như uyên nguyên ngữ nghĩa của tên nước Văn Lang. Cũng như các dân tộc khác thời
cổ đại khi còn là một tộc người thì lấy chữ “người” để chỉ tên của dân tộc đó
theo ngôn ngữ của họ. Chữ Lang trong tiếng Hán có nghĩa là đàn ông, nguyên gốc
của Việt cổ còn ghi rõ trong truyền thuyết con trai vua gọi là Quan Lang và con
gái là Mị nương. Đồng bào Mường hiện nay vẫn gọi Quan Lang là người đứng đầu
một Mường (bản làng) là Quan Lang. Ngôn ngữ phương Nam còn có những chữ như
Dranglô của Barnar có nghĩa là đàn ông, Arăng tiếng Êđê và Urang của Chàm đều
có nghĩa là người. Trong tiếng Indonésia, Mã Lai chữ Orang cũng nghĩa là người.
Phương pháp so sánh của ngôn ngữ lịch sử xem những danh từ kép Văn Lang, Việt
Lang, với Urang, Ô rang, cũng xem như Dạ Lang với Drang trong chữ Dranglo là
giống nhau trên căn bản. Sự khác biệt là do biến đổi từ trạng thái nọ sang
trạng thái kia theo điều kiện không gian và thời gian mà thôi.
Căn cứ trên bản đồ nhân chủng cho thấy tộc
danh có thành tố “Lang” trải rộng khắp Trung Nguyên từ lưu vực sông Dương Tử
xuống tới Bắc Trung Việt (Việt Nam) như Dạ Lang (Quý Châu) Bạch Lang (Tứ
Xuyên), Việt Lang (Quảng Đông) và Văn Lang (Bắc Việt Nam) và những danh từ
chung chỉ người như Lang, Dranglo, Orang, trải rộng trên một địa bàn lớn ở vùng
đồng bằng ven biển, các vùng ven biển bao quanh Nam Hải tới Indonesia, Mã Lai.8
Vùng đất cư trú của các chi tộc này xét về mặt địa lý phù hợp với cương
vực của nước Văn Lang cũ như truyền thuyết kể lại. Điều này được xác nhận bởi
các nguồn sách sử cổ như “Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư” đã bị triều Thanh
tịch thu thì ở tỉnh Quảng Tây có nhiều người Lang (Lang nhân). Do đó người ta
gọi thổ binh ở vùng này là Lang binh và người Choang cách đây 4, 5 thế kỷ vẫn
còn được gọi là Lang, Choang là đọc chữ Lang trại âm mà ra. Thực tế lịch sử cho
chúng ta thấy tính hiện thực của truyền thuyết trăm trứng nở trăm con với sự
hiện diện của các nước mà cổ sử Trung Quốc gọi là Bách Việt (Bai-Yue).
Danh xưng Bách Việt trong sách “Lã Thị
Xuân Thu”, thiên “Tự Quan” viết: “Phía
Nam Dương Châu, Hán (Hán thủy) là Bách Việt”. Cao Dụ giải thích tiếp như
sau: “Bách Việt là nơi tộc Việt có cả
trăm chủng”. Sách Hậu Hán Thư, Địa lý chí dẫn lời Thần Tán về Bách Việt như
sau: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên 7,8
ngàn dặm, người Bách Việt ở xen kẽ nhau gồm nhiều chủng tính (tên họ) khác
nhau”. Sử ký của Tư Mã Thiên chép
rằng đời Chu An Vương, Sở Điệu Vương sai Bạch Khởi đánh dẹp Bách Việt ở miền
Nam vào đầu thế kỷ thứ IV TDL. Sách “Lã thị Xuân Thu” viết rằng ngay từ đầu triều Thương, cổ sử Trung Quốc đã
đề cập tới tên một số chi tộc Việt như Âu Thâm, Việt Âu, Quế Quốc, Quyên Tử,
Sản Lý, Cửu Khuẩn, Đông Việt, Âu Nhân, U Việt, Cô Muội, Thả Âu và Cung Nhân.
Theo “Dật Chu thư” thì các chi tộc Việt ở Lĩnh Nam như Quế Quốc, Sản Lý, Quyên
Tử, Cửu Khuẩn phải cống nạp đồi mồi, hạt châu, chim quí, ngà voi, sừng tê, chim
Hạc, chó lùn. Lạc Việt cống tre ngà (đại trúc) măng trúc, Thương Ngô ở phía Nam
Hồ Nam cống chim công. Tuy nhiên, sách “Trúc thư kỷ niên” chép là mãi đến đời
Chu Thành Vương, năm 1040 TDL “Vu Việt lai tân” nghĩa là Việt đến làm khách
thăm xã giao mà thôi.
Sách sử cổ của Trung Quốc cũng ghi là đời
Chu, có phái đoàn sứ bộ Việt Thường sang biếu chim Bạch Trĩ năm 1110 TDL đời
Chu Thành Vương năm thứ 6. Như vậy chính cổ sử Trung Quốc đã xác nhận sự hiện
hữu của Việt Thường ngay từ thời Đế Nghiêu. Việt Thường Thị của cư dân trồng
lúa nước nên đã có trình độ cao về thiên văn và đã làm ra lịch thời vụ mùa màng
cho nông nghiệp gọi là Nông lịch. Chính vì cùng một dòng tộc đại chủng Bách
Việt nên họ Việt Thường đã đến biếu vua Nghiêu một con rùa hàng ngàn năm tuổi.
Trên lưng con rùa này có viết chữ “Khoa đẩu” tức là lối chữ hình con nòng nọc
của tộc Việt dòng Thần Nông phương Nam để chỉ cách làm và ứng dụng Nông lịch là
Âm lịch còn dùng mãi đến tận bây giờ. Sau thời Đế Nghiêu Thuấn đến nhà Hạ, Nông
lịch đã ứng dụng hoàn chỉnh nên sách sử cổ thường gọi là lịch nhà Hạ. Đó chính
là Việt lịch tính theo chu kỳ của mặt trăng. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong “Vân
Đài Lọai ngữ” đã viết: “Việt lịch tức Âm
lịch tính theo hệ thống quỹ đạo mặt trăng ứng dụng cho con nước mà bia đá ở Cối
Kê, kinh đô nước Việt thời Câu Tiễn ghi rõ là nước thủy triều lên xuống đúng
chu kỳ mặt trăng”.
Trong tác phẩm Sử Ký, sử gia chính thống
Đại Hán là Tư Mã Thiên chép về sự hình thành của quốc gia Việt Thường như sau: “Đầu đời Tây Chu (1143-770TDL) người nước
Việt Thường đuổi người Tam Miêu, lập nước ở vùng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên
Dương còn gọi là hồ Bà Dương ở phía Nam lưu vực sông Dương Tử”. Như vậy,
nước Việt Thường còn tồn tại mãi tới đời vua nước Sở là Hùng Cừ. Sử nước Sở
chép rằng đời Hùng Cừ (887-877TDL) đã chiếm Việt Thường bên hồ Phiên Dương mà
kinh đô của Việt Thường nằm ở giữa hồ Phiên Dương và hồ Động Đình. Đời Tống, La
Tất viết “Lộ sử” đã liệt kê một số nhóm trong Bách Việt như sau: “Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu
Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô,
Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu,
Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cần, Bắc Đái, Khu Ngô gọi là
Bách Việt”. Trong “Dật Chu Thư” viết chữ Lạc là Lộ, chữ Lộ chính là chữ Lạc
đã được sách Lã Thị Xuân Thu giải thích rõ ràng. Như vậy, La Tất viết Lộ sử tức
sử của Lạc Việt.9
Theo Đào Duy Anh thì trong những nhóm Bách
Việt ấy chúng ta thấy có những nhóm như Dương Việt ở hạ lưu sông Dương Tử, nhóm
Thương Ngô ở miền Nam tỉnh Quảng Tây, nhóm Sản Lý tức Xà Lý (Xa Lý) ở tận miền
Tây Nam tỉnh Vân Nam, còn Kê Từ, Bắc Đái là những tên huyện thời Hán thuộc quận
Giao Chỉ. Trong những nhóm Bách Việt được chính sử Trung Quốc như Sử Ký và Tiền
Hán Thư chép tương đối kỹ càng là: Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu. Sử ký
mục “Đông Việt truyện” cho chúng ta biết rằng Đông Việt hay Đông Âu trong thời
Tần Hán đóng đô ở Vĩnh Ninh tức Vĩnh Gia là miền Triết Giang. Mân Việt thì ở
đất Mân Trung tức là miền Phúc Kiến. Nam Việt đô ở Quảng Châu gọi là thành
Phiên Ngung thuộc miền Quảng Đông, Tây Âu ở phía Nam sông Ly miền Quảng Tây.
Nhóm Lạc Việt, theo Hậu Hán thư cho chúng ta biết rằng các quận Giao Chỉ và Cửu
Chân là người Lạc Việt, như thế Lạc Việt là một chi Việt tộc tập trung nhiều
nhất ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy, theo sử sách xưa của chính Hán tộc đã gọi
Bách Việt là những nhóm người sống rải rác khắp miền Hoa Nam, phía Tây gồm cả
đất Vân Nam Tứ Xuyên và phía Nam gồm cả Bắc và Trung Việt Nam bây giờ mà sử
sách thường gọi chung là miền Giang Nam tức miền Nam Dương Tử Giang hoặc miền Lĩnh Nam, phía Nam
rặng núi Ngũ Lĩnh. Tuy nhiên chính sử Trung Quốc chi ghi một cách sơ xài như Sử
ký của Tư Mã Thiên chỉ ghi kỹ về Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt và Lạc Việt
Thư tịch cổ Trung Quốc phải thừa nhận một
thực tế lịch sử đó là sự thành lập của các quốc gia thời Xuân Thu Chiến quốc mà
họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Sử Ký của Tư Mã Thiên chép tương đối kỹ
về Đông Việt tức U Việt của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà lên
tới miền Giang Tô tức châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi
Dương Việt. Nước Việt đóng đô ở Cối Kê với những thăng trầm dâu bể của lịch sử
nên Lý Tế Xuyên mới viết “Việt điện U linh” về nước Việt thuở xa xưa. Mân Việt
ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây,
Liêu Việt ở Quý Châu, Điền Việt, Kiềm Việt ở Vân Nam, Quỳ Việt ở Tứ Xuyên, Nam
Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây và Lạc Việt ở xen kẽ
với Âu Việt rải rác khắp Hoa Nam nhưng tập trung nhiều nhất ở Quảng Tây và Bắc
Việt Nam bây giờ.
Đối chiếu với cương giới Văn Lang trong
truyền thuyết chúng ta thấy rất phù hợp với thực tế địa bàn cư trú của cộng
đồng Bách Việt, từ Hồ Động Đình xuống tận phương Nam giáp Chiêm Thành và từ
biển Đông sang tới tận Ba Thục ở phía Tây. Thế nhưng Đại Việt Sử Lược bị sử
quan triều Thanh là Tiền hi Tộ sửa đổi nên chép tên các bộ chỉ nằm trong phạm
vi Bắc Việt Nam bây giờ. Theo nhà bác học Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ thì
“Tên 15 bộ do triều Hán, Ngô mới đặt ra,
tên gọi lẫn lộn ngờ rằng những tên đó là do bọn hậu Nho góp nhặt vay mượn chép
ra nên khó mà tin được. Xét về phận dã thiên văn thì Giao Chỉ thuộc Sao Tĩnh,
Dực Chẩn và Đẩu Ngưu”. Như vậy, nhà bác học Lê Quý Đôn đã phủ nhận cương
giới 15 bộ do sử Tàu chép và xác nhận rõ là cương giới nước ta thời cổ nằm mãi
ở Trung nguyên Trung Quốc bây giờ. Thật vậy, cương giới Hồng Bàng-Văn Lang xưa
được ghi trong “Thiên thư” là Việt Tĩnh Cương lấy chòm sao Tĩnh làm chuẩn để
phân bố các vùng, các bộ trong nước Văn Lang. Nhìn chung, chòm sao Tĩnh tượng
hình bằng 2 đường thẳng và 2 đường ngang cắt nhau tại 4 điểm chỉ vùng đất từ
Tam giang Bắc gồm sông Vị, sông Hoàng và sông Lạc xuống tới Tam giang Nam gồm
sông Nguyên, sông Tương và sông Dương Tử.
Sách Lĩnh Nam Trích Quái dựa theo truyền
thuyết dân gian Việt cổ lại chép các bộ Chân Định ở Trường Sa Hồ Nam, bộ Quế
Dương, Quế Lâm ở Quảng Tây và Tượng quận ở Quý Châu, Vân Nam Trung Quốc rất phù
hợp nguồn sách sử cổ và với thực tế lịch sử của các nước Bách Việt ở lãnh thổ
TQ bây giờ. Trong khi tất cả sách sử Trung Quốc đều viết cương giới 15 Bộ của
nước Văn Lang chỉ nằm trong phạm vi Bắc Việt Nam. Sự khác biệt cũng không có gì
khó hiểu, vì việc bóp méo, xuyên tạc và sự kiện lịch sử được hư cấu để vấn đề
gốc tích dân tộc ta trở nên huyền hoặc là bản chất cố hữu, chủ trương trước sau
như một của Hán tộc xuyên suốt dòng lịch sử. Tư Mã Thiên là người hiểu rõ hơn
ai hết Hoàng Đế là người Việt vì cũng chính ông ta đã viết là những vị vua Đế
Chuyên Húc, Đế Cốc đều là ông tổ của những vị vua Việt sau này. Thế nhưng, với
tư cách là sử gia đại biểu chính thống cho Hán tộc vẫn đặt bút viết Hoàng Đế là
thủy tổ của Hán tộc. Tư Mã Thiên cũng hiểu rõ về Lạc bộ Chuy, Lạc bộ Thủy, Lạc
bộ Trãi nhưng lại viết Lạc bộ Mã vì không muốn người Việt nhớ đến cội nguồn dân
tộc và lãnh thổ Việt xưa.
Tóm lại, chính thực tế lịch sử đã minh
nhiên lý giải ý nghĩa của sự việc lạ thường là mẹ Tiên đẻ trăm trứng nở trăm
con, để rồi trở thành trăm chi tộc Việt mà sử cổ Trung Hoa gọi là Bách Việt.
Mỗi chi tộc do một người con trai đứng đầu nên từ đó mới có ý niệm bách tính là
trăm họ. Đây mới chính là vấn đề mà cốt lõi của nó là sự gửi gấm của ông cha ta
thời dựng nước cho con cháu ngàn sau, về nguồn gốc giống dòng của trăm chi tộc
Việt cùng chung huyết thống để lúc hoạn nạn nhớ cưu mang giúp đỡ lẫn nhau như
lời Bố Lạc dặn dò trước lúc chia tay. Không những cưu mang giúp đỡ lẫn nhau mà
còn phải đoàn kết, thống nhất sức mạnh Việt tộc để phục hưng đại tộc Việt.
Truyền thuyết dân gian Hoa Nam và Đài Loan
về chim Phượng Hoàng, chúa tể loài chim Totem Vật tổ Việt tộc mà dân gian gọi
là “Bái điểu tộc”, chống lại “Thiên ma tộc” Đại Hán. Đó chính là bức “Thông
điệp” của tiền nhân từ huyền thoại xuyên suốt mấy ngàn năm của dòng vận động
lịch sử Việt. Thế là Truyền thuyết huyền thoại từ chỗ u u đã trở nên minh minh,
chứ không còn u u minh minh như trước nữa.
Ngày nay chúng ta không còn ngạc nhiên khi
thấy ông cha ta đã chọn loại Chim là vật biểu. Hồng là Ngỗng trời nên còn có
tên là Thiên Nga (Swan), hàm ý có chí lớn bay cao tận trời xanh. Hình ảnh chim
được khắc hoạ trên mặt trống đồng với mỏ dài của loại chim nước. Các nhà nghiên
cứu đã kết luận chim nước là của Đông Nam Á, nó gắn liền với cư dân nông nghiệp
sống ở vùng sông lạch, ao hồ.
Theo triết gia Kim Định thì Hồng Hộc, chim
nước của Việt tộc thể hiện nguyên lý Âm Dương Giao Chỉ vì nó vừa bay lên trời,
vừa xuống dưới nước. Chi tộc Âu Việt tôn thờ chim Hồng biểu trưng của văn minh
nông nghiệp cùng với chi Lạc thờ Rồng trong cộng đồng Bách Việt nên chúng ta
vẫn tự hào là dòng giống Lạc Hồng (Lạc Âu). Trên bình diện tâm linh, hư cấu
thêm ý nghĩa thần thoại thì chim bay lên tận trời xanh thường gắn liền với các
vị Tiên nữ trên trời. Sách “Quảng Đông Tân Ngữ” ghi Trĩ là con Công của Việt
tộc luôn luôn bay theo hướng mặt trời, mà con Công chính là chim Phượng Hoàng
huyền thoại được coi như tổ các loài chim. Ý niệm Chim-Tiên-Mặt trời gắn liền
với tín ngưỡng nguyên thủy của cư dân nông nghiệp với nền văn minh lúa nước của
Việt tộc. Bên cạnh ý nghĩa tâm linh đó, chim Hồng biểu tượng một ý chí cao,
luôn bay vươn lên, vượt tới trời xanh, thể hiện ý chí cao cả của tộc Việt,
người dân Việt sẳn sàng hy sinh cho dân tộc nên xem cái chết “nhẹ như lông
Hồng”.10
RỒNG VIỆT NAM
Hình tượng Rồng qua các Triều đại
(hình của Trần Ngọc Thêm)
CỘI
NGUỒN TRĂM HỌ
Thực tế đã minh nhiên lý giải ý nghĩa của
sự việc lạ thường là mẹ Tiên sinh ra trăm trứng nở trăm con để rồi mỗi người
con đi khắp nơi phát cỏ lập ấp trở thành một trăm chi tộc Việt mà cổ sử Trung
Quốc gọi là Bách Việt. Mỗi chi tộc do một người con trai đứng đầu vâng lời bố
Lạc đến một vùng đất mới khai phá đất đai, phát cỏ mở đất để lập ấp sinh sống
và lập ra một dòng họ. Chính từ đó mới có ý niệm bách tính nghĩa là trăm họ của
Việt tộc mà trước đây, do ảnh hưởng của văn hoá Hán ta cứ nghĩ là của Hán tộc.
Đây chính là vấn đề cốt lõi ẩn chứa trong huyền thoại mà tiền nhân ta thuở dựng
nước đã gửi gấm cho thế hệ con cháu Việt Nam ngàn sau.
Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư viết: “Nhà thì có gia phả cũng như nước thì có
Quốc sử. Phải ghi lại cho tinh tường để tổ quốc ghi công. Non sông gấm vóc, đời
này qua đời khác đến. Bên văn thì hiền lương, bên võ thì lão luyện. Vị thế nước
nhà thật rực rỡ. Đầu đuôi các thế hệ được ghi chép, biên khảo để truyền về sau.
Đầu tiên chỉ chép vị tổ tối cao. Tổ quốc ta được tính từ tổ xa xưa đó, vị tổ
gốc rễ, vị tổ từ đất mẹ truyền đến chúng ta đã hàng muôn nghìn đời giống như
cây thì phải có gốc, nước thì phải có nguồn. Trước mắt chúng ta hãy tính từ “Ba
vua mở nước”. Vậy từ xa xưa, nước ta đã có các vua Hùng làm chủ nước non với
bản đồ hoa sen nở rộ, tính từ khi Kinh Dương Vương đứng đầu “Ba vua mở nước”.11
Ngày nay, các nhà nghiên cứu đều ghi nhận
rằng Việt Nam có 3 dòng họ lớn là họ Nguyễn, họ Trần và họ Lê. Trong 3 họ này,
họ Nguyễn là đông nhất vì theo các nhà nghiên cứu thì họ Nguyễn đã thiên cư dần
từ Cam Túc, Thiểm Tây xuống Hoa Nam rồi Việt Nam. Mặt khác, đời Trần vào thế kỷ
12 sau khi sắp xếp để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, Thái sư Trần
Thủ Độ lấy cớ ông tổ họ Trần tên Lý nên bắt tất cả những ai mang họ Lý phải đổi
ra họ Nguyễn. Chính vì vậy họ Nguyễn ngày càng đông hơn.
I.
NHỮNG DÒNG HỌ DỰNG NÊN CÁC TRIỀU ĐẠI TRONG LỊCH SỬ
VIỆT.
Theo nhà nghiên cứu Gia phả Dã Lan Nguyễn
Đức Dụ thì Việt Nam có khoảng 140 dòng họ. Khi nghiên cứu các dòng họ ở Việt
Nam, người ta phải căn cứ vào lịch sử thiên cư của Việt tộc, bao gồm các quốc
gia Bách Việt và các triều đại trong lịch sử, các chiến công lẫy lừng của các
danh tướng, các anh hùng danh nhân văn hoá tựu chung có thể liệt kê một số dòng
họ chính nổi bật nhất như sau:
. Họ Hồng: Họ Hồng Bàng.
. Họ Lạc (Lị, Lộ, Ló ..): Họ của
bố Lạc Long Quân.
. Họ Âu (Ngu): Họ của mẹ Âu (Cơ).
. Họ Hùng: Hữu Hùng thị, được xem
như họ của các vua Hùng. Thời Hai bà Trưng cũng nhận là kế lại nghiệp Hùng nên
lấy tên nước là Hùng Lạc.
. Họ Triệu: Triệu Đà lên ngôi vua
lấy hiệu là Triệu vũ Vương thành lập quốc gia Nam Việt. Về sau có vua Bà Triệu
thị Trinh khởi nghĩa năm 248 chống quân Ngô. Triệu Quang Phục lên ngôi lấy hiệu
là Triệu Việt Vương (549-571).
. Họ Trưng: Trưng Trắc, Trưng Nhị
…
. Họ Khu: Năm 139, nhân dân Nhật
Nam dưới sự lãnh đạo của Khu Liên đánh chiếm huyện Tượng Lâm thành lập nước Lâm
Ấp. Sử Tàu chép là Lâm Ấp chính thức thành lập vào niên hiệu Sơ Bình 190-192.
. Họ Phạm: Phạm Văn, Phạm Phật
làm vua nước Lâm Ấp.
. Họ Lý: Nhà Tiền Lý từ năm 544
đến năm 602, Lý Bí lên ngôi lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập quốc gia Vạn Xuân.
Lý Phật Tử (571-673). Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi lấy hiệu là Lý Thái Tổ mở
ra triều đại nhà Lý dài 215 năm (1010-1215).
. Họ Mai: Mai Thúc Loan lên ngôi
được suy tôn là Mai Hắc Đế (722-725).
. Họ Phùng: Phùng Hưng được nhân
dân suy tôn là Bố Cái Đại Vương sau khi khởi nghĩa đánh bại quân Đường giành
quyền tự chủ cho nước nhà (783-791).
. Họ Khúc: Khúc Thừa Dụ giành
quyền tự chủ năm 906.
. Họ Dương: Dương Đình Nghệ chống
quân Nam Hán.
. Họ Ngô: Ngô Quyền đại phá quân Nam
Hán (937-965).
. Họ Đinh: Đinh Bộ Lĩnh thống
nhất nước nhà 967.
. Họ Lê: Lê Hoàn, Lê Lợi.
. Họ Trần: Trần Cảnh.
. Họ Hồ: Hồ Quý Ly, Hồ Thơm
Nguyễn Huệ.
. Họ Mạc: Mạc Đăng Dung.
. Họ Trịnh: Trịnh Kiểm.
. Họ Nguyễn: Nguyễn Hoàng.
Sau khi Mã Viện thắng Hai Bà
Trưng đã tàn sát dân ta, chúng còn bắt hàng trăm“Cừ Soái” đem sang Tàu, số
những người còn lại mang họ này phải tìm cách đổi họ thay tên nên dòng họ
Trưng, họ Thi, họ Chử, họ Hùng, họ Thục hầu như không còn nữa.
2. NHỮNG DÒNG HỌ LẬP NÊN CHIẾN CÔNG HIỂN
HÁCH TRONG LỊCH SỬ:
. Họ Chu: Năm 158, Chu Đạt lãnh
đạo nhân dân Cửu Chân nổi lên đánh chiếm Nhật Nam. Năm 163, Chu Cái cùng với Hồ
Lan lãnh đạo nhân dân nổi lên đánh chiếm huyện Quế Dương, Thương Ngô.
. Họ Bốc, họ Hồ, họ Phan: Từ
160-180, nhân dân Thương Ngô dưới sự lãnh đạo của Bốc Dương, Phan Hồng, Lý
Nghiêu, Hồ Lan, Chu Cái nổi lên đánh chiếm Thương Ngô.
. Họ Lương: Tháng giêng năm 178,
anh hùng dân tộc Lương Long lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân các quận
Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nổi lên đánh chiếm quận huyện, làm chủ
đất nước được 4 năm.
. Họ Ninh: Ninh Trường Châu nổi
lên chiếm Uất Lâm và Thủy An Quảng Tây bây giờ.
. Họ Lý: Lý Trường Xuân và Lý Tự
Tiên khởi nghĩa chống giặc Đường.
. Họ Dương: Năm 806, Dương Thanh
nổi dậy giết Lý Tượng Cổ và hơn 1 ngàn quân Đường.
Ngoài những dòng họ Việt ở Việt Nam bây
giờ, chúng ta còn phải kể tới những dòng họ Việt cổ ở Hoa Nam mà sử sách Trung
Quốc gọi là Bách Việt. Từ trước đến nay, các sử gia Việt Nam do thiếu tài liệu
như sử gia Trần Trọng Kim trong tác phẩm “Việt Nam Sử lược” viết về dòng dõi Lý
Nam Đế như sau: “Lý Bôn có người gọi là
Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu, tổ tiên đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang
Giao Châu, đến lúc bấy giờ đã là 7 đời, thành ra người bản xứ …” hoặc “Nguyên họ Hồ là dòng dòng dõi nhà Ngu bên
Tàu nên đặt quốc hiệu là “Đại Ngu”.
Đặc biệt là các nhà sử học Mác Lê viết sử
theo nghị quyết của đảng CSVN nên viết rằng nước ta chỉ nằm trong phạm vi Bắc
và Trung VN hiện nay và cũng chép rằng Lê Quý Ly, cháu 4 đời của Hồ Liêm, dòng
dõi Hồ Hưng Dật người Triết Giang bên Tàu.
Gần đây, Lê Trung Hoa trong “Họ và tên người Việt Nam” vẫn viết theo
sách sử cũ: “Phần lớn các họ của người Kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc như
Trần, Lê, Lý, Đỗ … Trong hàng nghìn năm Bắc thuộc và tiếp tục sau đó, nhiều
quan lại và thường dân Trung Quốc đã sang định cư ở nước ta, rồi sinh con đẻ
cháu, dần dần trở thành người Việt. Xin nêu ra một vài dẫn chứng như Trần Lãm,
cha nuôi của Đinh Bộ Lĩnh, vốn là con ông Trần Công Đức, quán ở Trấn Quảng
Đông, từ Trung Hoa sang hùng cứ ở Bố Hải Khẩu, nay là xã Kỳ Bố, huyện Vũ Tiên,
phũ Kiến Xương tỉnh Nam Định, mà tự xưng là Trần Minh Công. Ngay cả họ Nguyễn, một họ lớn nhất của người
Việt chiếm 38% thì Lê Trung Hoa cũng cho có nguồn gốc Trung Hoa vì: “Đời Tấn,
bên Trung Quốc có Nguyễn Tịch nổi danh với điển tích Mắt xanh. Đồng thời với
Nguyễn Tịch có Nguyễn Hàm, một nhà thơ nổi tiếng!!!”.
Thực ra, tất cả đều là họ của người “Trung
Quốc gốc Việt cổ” ở Hoa Nam bây giờ thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Ông Tổ nhà Lý là
chi Hmong-Mien của Bách Việt, nhà Trần, nhà Hồ, Nhà Tây Sơn …đều là người Mân
Việt ở Phúc Kiến, Triết Giang nên đều là người Việt trong đại chủng Bách Việt
của chúng ta.
3. NHỮNG HỌ VIỆT CỔ Ở ĐÔNG VÀ NAM TRUNG
QUỐC
Ngày nay sự thật lịch sử đã được phục hồi
sau hàng ngàn năm bị che phủ bởi lý của kẻ mạnh. Sự thật lịch sử đã xác nhận là
lãnh thổ của nước Xích Quy rồi Văn Lang của Việt tộc thời xưa còn ở lưu vực 2
con sông Hoàng Hà Dương Tử của Trung Quốc bây giờ. Suốt dòng lịch sử Việt,
người Việt cổ đã phải thiên cư rời bỏ địa bàn sinh tụ trước kẻ thù Hán tộc xâm
lăng phương Bắc chạy xuống phương Nam. Số còn lại trải qua hàng ngàn năm thống
trị của Hán tộc với chủ trương đồng hoá, buộc họ phải theo phong tục tập quán
Hán. Thế nhưng, trải qua hàng ngàn năm bị nô dịch nhưng họ vẫn giữ bản sắc Việt
nên tuy sinh hoạt giống như người Hán nhưng không bao giờ hoá thành người Hán
được. Chính vì vậy, tuy cùng gọi là người Trung Quốc nhưng người Nam TQ và
người Bắc TQ khác nhau hoàn toàn từ con người đến đời sống văn hoá, phong tục
tập quán. Người Miền Nam Trung Quốc vẫn gọi nhau bằng họ như ông Trần, ông Lý…
chứ không gọi bằng tên chính để nhận biết, trân trọng cội nguồn Việt cổ của tổ
tiên họ. Như vậy, người dân ở miền Nam TQ hiện nay là người Trung Quốc gốc Việt
cổ nên họ của dân Hoa Đông, Hoa Nam chính là họ Việt như họ Lý, Lưu, Trương,
Mai, Lâm, Trịnh ...
Ngay từ thời Chu khi Hồ Công lấy công chúa
Chu, vua Chu cắt đất Trần phong cho Hồ Công. Hồ Công lấy đất phong lập ra triều
Trần của dòng họ Trần ở lưu vực phía Đông sông Dương Tử. Sử sách Việt ghi tổ
tiên của Lê Quý Ly và Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm vốn họ Hồ ở đất Trần là
người Việt cổ. Hồ Quý Ly đặt tên nước là “Đại Ngu” hàm nghĩa là dòng dõi vua
Thuấn họ Ngu. Hồ Quý Ly nuôi tham vọng mở ra triều đại thanh bình thịnh trị như
thời Đường Ngu tức Nghiêu Thuấn thuở xưa nên mới đặt tên nước là Đại Ngu. Theo
các nhà nghiên cứu thì Ngu về sau trại âm ra là Âu, Ngu Cơ=> (Ou Cơ) =>
Âu Cơ. Chữ Cơ có nghĩa là người con gái xinh đẹp nên truyền thuyết Rồng Tiên với mẹ Âu Cơ nghĩa là mẹ Âu xinh
đẹp như tiên.
Trong suốt trường kỳ lịch sử, Bách Việt ở
Nam Trung Quốc luôn vùng lên giành lại đất Tổ Trung nguyên mỗi khi Hán tộc suy
yếu. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các quốc gia Bách Việt của con Rồng cháu Tiên
như Việt, Ngô rồi Sở nhiều lần đánh thắng các nước lên ngôi Bá chủ Trung
nguyên. Thế nhưng do ở rải rác khắp trung nguyên, giới lãnh đạo vì quyền lợi cá
nhân dòng họ đã gây chiến tranh chém giết lẫn nhau để rồi cuối cùng bị đế quốc
Tần tiêu diệt. Khi triều Tần xụp đổ, Hạng Võ người Sở Việt cùng Lưu Bang người
Hán quyết chiến một mất một còn giành quyền làm chủ Trung nguyên. Hạng Võ ỷ tài
“Lực bạt sơn hề khí cái thế”, anh hùng khí đoản nên kiêu căng không nghe lời
của quân sư Phạm Tăng nên bị Lưu Bang vây khốn phải tự sát. Thế là chấm dứt
thời kỳ “Hán Sở Tranh Hùng” nên Trung nguyên lại về tay Hán tộc để lại bao
thương tiếc cho người dân Sở Việt ở Hoa Nam.
Trước một kẻ thù Hán tộc phương Bắc vốn là
một tộc người du mục đời sống vật chất, thiên về lý trí nên tình cảm lạnh lùng
đến mức khô cằn. Cuộc sống du mục buộc phải có tổ chức, đoàn kết, sức mạnh võ
biền, rất thạo việc chiến tranh. Trong khi các nước Bách Việt ở phương Nam định
cư rải rác khắp Trung nguyên là cư dân nông nghiệp đời sống thiên về tình cảm,
thịnh về văn hoá nhưng kém về võ lực nên Hán tộc thắng một cách dễ dàng. Mặt
khác, các quốc gia Bách Việt ở tản mạn khắp Trung nguyên nên vì quyền lợi quốc
gia, xem nhẹ tình đồng chủng nên không biết đoàn kết để thống nhất sức mạnh mà
thường đánh lẫn nhau để giành ngôi vị thủ lĩnh. Thời Xuân Thu Chiến Quốc với sự
hưng thịnh của Ngô, Việt, Sở vùng lên làm bá chủ Trung Quốc một thời gian, sau
đó Ngô lại đánh Việt, Việt diệt Ngô rồi Sở diệt Việt để rồi cuối cùng lại bị
Hán tộc thống trị như cũ. Cuối đời Đường, tình hình Trung Quốc tam phân ngũ
liệt nên sử sách gọi thời kỳ này là thời Ngũ đại Thập quốc. Ở miền Bắc gồm 5
triều đại nối tiếp là: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu được
xem là chính thống của Trung Quốc. Trong khi đó ở miền Nam, cư dân Hoa Nam gốc
Việt nổi lên giành độc lập và thành lập 10 nước Bách Việt gồm:
Nước Ngô do Dương Hành Mật lập ra
ở An Huy.
Tiền Thục do Vương Kiến thành lập
ở Tứ Xuyên.
Ngô Việt do Tiền Cù thành lập ở
Triết Giang.
Sở do Mã Ân lập ra ở Hồ Nam.
Mân do Vương Thẩm thành lập ở
Phúc Kiến của Mân Việt.
Nam Hán do Lưu Ẩn thành lập ở
Quảng Đông. Thực ra tên nước lúc ban đầu lấy tên rặng núi Ngũ Lĩnh ở Hoa Nam là
Đại Việt đặt tên nước, rồi về sau đổi là Nam Hán vì ở phía Nam sông Hán.
Nam Bình do Cao Bảo Dung thành
lập ở Hồ Bắc.
Hậu Thục do Mạnh Trí thành lập ở
Tứ Xuyên.
Nam Đường do Lý Thắng thành lập ở
Giang Tô.
Bắc Hán do Lưu Sùng thành lập ở vùng Sơn Tây
phía Bắc sông Hán.
Thực tế này được nhà Trung Hoa học, học
giả H. Wiens nhận xét một thực trạng đau lòng là “Bao nhiêu cuộc trổi dậy của Bách Việt đều thất bại vì người Lĩnh Nam
tự phá lẫn nhau…”. Lịch sử đã chứng minh khi các chi Việt thuộc các nước
Ngô, Việt, Sở bỏ Hoa Nam chạy xuống Bắc và Trung Việt Nam hợp nhất với Lạc Việt
và các chi Việt khác định cư tại đây từ trước tạo nên một sức mạnh tổng lực nên
đã đánh thắng bao cuộc xâm lược của Hán tộc để tồn tại mãi tới ngày nay.
Từ huyền thoại đến hiện thực lịch sử đã
minh nhiên xác định Việt tộc bao gồm rất nhiều chi tộc như Lạc Việt, Âu Việt,
Mân Việt, Dương Việt, Đông Việt, Liêu Việt, Quì Việt, Điền Việt, Kiềm Việt, La
Việt... Sử gia chính thống TQ Tư Mã Thiên trong bộ Sử Ký đã viết: “Nước Sở,
nước Việt đều là dân Việt. Dân nước Sở họ Mị, dân nước Việt họ Tự (Từ)”. Nhà
nghiên cứu Tscheppe ghi nhận Phù Sai, Hạp Lư, Câu Tiễn đều là họ Việt. Người
Mường là người Việt cổ sơ còn giữ được một vài họ cổ là họ Ai, họ Kem, họ Khói,
họ Sa, họ Xạ … Hiện nay đồng bào Mường còn giữ một số họ như Bạch, Bùi, Cao,
Đinh, Hà, Hoàng, Lê, Phạm, Quách, Trịnh Xa trong đó Đinh, Quách, Bạch, Hoàng là
nhiều nhất. Cổ sử Trung Quốc cho biết Hoàng Đế Li Vưu, cổ thiên tử là thủ lĩnh
của Tam Miêu chính là đồng bào Hmong Mien gồm đồng bào Dao và Miêu (Mèo) trước
đây một thời làm chủ Trung nguyên. Tất cả đồng bào thiểư số đều là những chi
tộc Việt, là anh em cùng chung một bào thai của mẹ Âu nên chúng ta vẫn gọi nhau
một cách thân thương là đồng bào, là bà con cô bác, chú dì, anh chị…
Rồng thời Lý
Rồng thời Trần
Rồng thời Lê
TÌNH
ĐỒNG BÀO RUỘT THỊT, Ý NGHĨA NHÂN VĂN CAO ĐẸP CỦA VIỆT NAM
Truyền thống lịch sử năm ngàn năm văn hiến
còn cho chúng ta một ý nghĩa cao đẹp tràn đầy vẻ nhân văn của huyền thoại Việt
Nam mà không một dân tộc nào có được. Thật vậy, từ hình tượng Mẹ Tiên đẻ ra một
bọc trăm trứng rồi đem ra để ở ngoài đồng để mẹ đất ấp ủ, bảy ngày sau nở ra
trăm người con trai, người nào cũng khôi ngô tuấn tú đã cho chúng ta niềm tự
hào con Rồng cháu Tiên. Chúng ta có chung cội nguồn huyết thống thiêng liêng,
truyền lưu cho chúng ta nên chúng ta đều “bình đẳng” như nhau. Chúng ta cùng
chung một bào thai của Mẹ Âu Cơ, người Mẹ Tổ quốc Việt Nam sinh thành dưỡng dục
nên chúng ta có quyền gọi những anh em là đồng bào ruột thịt mà các dân tộc
khác không thể gọi được như thế.
Hai chữ đồng bào mà chúng ta vẫn gọi một
cách thân thương trìu mến “Bọc điều trăm họ thai chung, Đồng bào tiếng gọi vô
cùng Việt Nam...”. Dân gian Việt thường gắn liền “yêu nước với thương nòi”,
“tình đồng bào với nghĩa ruột thịt” đặc trưng của nòi giống Việt. Chính từ ý
nghĩa đồng bào nên trong cuộc sống thường nhật, việc ứng xử thể hiện qua cách
xưng hô với người không phải trong gia tộc rất là thân tình chẳng khác gì bà
con họ hàng cả. Đối với tha nhân, người Việt chúng ta cũng gọi là bà con cô
bác, cũng xưng hô là ông bà, cô bác, chú thím, cậu mợ, anh chị em, là điều mà
không thấy ở bất cứ một dân tộc khác ngoài Việt Nam. Đồng bào còn biểu trưng
một ý niệm bình đẳng như nhau, giữa những con dân Việt không có gì khác biệt về
đẳng cấp, quyền lợi
Huyền thoại Rồng Tiên thể hiện một ý chí
độc lập tự cường lấy sức mình là chính, không dựa vào thần linh cũng như tha
nhân. Huyền tích Việt kể rằng mẹ Âu đem bỏ cái bọc ra ngoài đồng, biểu trưng
cho nền văn hoá nông nghiệp nên dân gian ngày xưa, khi đẻ xong lót lá chuối cho
con nằm dưới đất hàm nghĩa trong vòng tay của mẹ đất. Mặt khác nó cũng thể hiện
ý niệm nhân chủ, lấy con người làm chính, dựa trên ý chí tự chủ, tự lực tự
cường. Huyền thoại Rồng Tiên kể rằng sau 7 ngày trăm trứng nở ra trăm con trai,
không cần phép màu của bất cứ thần linh nào đã thể hiện cao độ tâm linh Việt,
sức sống Việt. Từ đó, chúng ta phải biết lấy sức mình là chính để đứng vững
trên đôi chân của mình không dựa vào Thần linh, một sức mạnh bên ngoài như các
dân tộc khác. Từ ý niệm đồng bào cùng chung một Mẹ, một nguồn cội huyết thống
đã hình thành một ý thức dân tộc cao độ với lòng yêu nước gắn liền với tình
thương nòi giống.
Hai ý niệm yêu nước thương nòi hoà quyện làm một, xuất phát từ
lòng tự hào “Con Rồng cháu Tiên” đã tạo nên những kỳ tích oai hùng, đẹp như áng
sử thi của thiên trường ca bất hủ Việt Nam. Hai chữ “Đồng bào”của Việt tộc còn
biểu trưng một cộng đồng Bách Việt luôn đặt quyền lợi chung lên trên quyền lợi
cá nhân, việc nước trước việc nhà, danh dự gia đình dòng họ trên lợi ích cá
nhân hẹp hòi vị kỷ. Tuy vậy, truyền thống Việt cổ vẫn lấy con người làm gốc
“Nhân bản”, tôn trọng cá nhân cũng như sự bình quyền nam nữ, không phân biệt
giàu nghèo sang hèn. Trong khi Tây phương coi trọng tự do cá nhân thái quá
không đếm xỉa gì tới tha nhân, tới lợi ích cộng đồng của nhân quần xã hội. Đó
chính là ý nghĩa của đạo đức Việt cổ mà giới học giả Tây phương đều phải hết
lời ca ngợi cái gọi là “Giá trị Phương Đông”, tinh hoa của nền văn minh đạo đức
Việt Nam.
HUYỀN
THOẠI RỒNG TIÊN,
BƯỚC
TIẾN HOÁ CỦA NHÂN LOẠI
Truyền thuyết về họ Hồng Bàng, tự thân chữ
họ đã gói ghém tinh thần gia tộc trong dòng họ của một thị tộc. Nhiều thị tộc
tiến tới một bộ tộc, rồi ý niệm dân tộc hình thành theo quy luật sinh thành,
tiến hoá chung của nhân loại. Xã hội loài người thuở ban sơ với đời sống hoang
dã, bản tánh hồn nhiên sống theo tục quần hôn của chế độ mẫu hệ kéo dài hàng
ngàn năm. Theo thời gian với sự tiến hóa của nhân loại, ý niệm độc hữu đã hình
thành gia đình, đáp ứng yêu cầu sinh hoạt của đời sống xã hội ở một thời điểm
nhất định nào đó. Thế nhưng, khởi nguyên từ hình tượng nguyên sơ của Mẹ Tiên
“đẻ trăm trứng nở trăm con”, nguyên lý Mẹ tiềm ẩn trong dòng máu Việt cái Gene
“Tiên” ngay cả khi đã chuyển sang hình thái phụ hệ. Thật vậy, nguyên lý Mẹ thể
hiện rõ nét trong sinh hoạt văn hoá, xã hội mang tính truyền thống của dân tộc
từ thuở xa xưa. Thời đó, trong các cuộc tế lễ hội hè đình đám, vai trò chủ tế
thuộc phụ nữ chứ không do các thầy tư tế như hầu hết các dân tộc khác chịu ảnh
hưởng của thần quyền. Thời kỳ này hình thành một nền văn minh vu thuật nên dân
gian vẫn thường gọi là bà Vu Ông Hích. Về sau nam giới mới được tham dự đồng tế
thì ta gọi là ông đồng bà bóng hay bà cốt.
Thời xưa, trống đồng không chỉ là một nhạc
cụ mà nó còn biểu hiện uy lực của một hiệu lệnh mà người đánh trống bao giờ
cũng là nữ giới. Tùy thư chép:“Người đánh khai mạc chiếc trống mới đúc bao giờ
cũng là người con gái”. Ngay tên con sông nơi mà những chi Việt tộc đã theo
triền sông xuôi Nam đã gọi tên một cách thân thương là dòng sông Mẹ, là sông
cái. Trong đời sống, nguyên lý Mẹ vẫn ngự trị như một nguồn suối tâm linh làm
dịu mát tâm hồn, xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thật vậy, không một dân tộc
nào mà có nhiều Thần nữ tâm linh như Việt tộc từ hình tượng Mẹ Tiên đến Cửu
Thiên Huyền Nữ, Thái Dương Thần Nữ, Mẫu thượng ngàn (Mẹ Long Nữ ở trên miền
núi) Bà Chúa Xứ, Mẫu Thoải (mẹ nước)… Nhiều làng trong tỉnh Hà Bắc đều có ghi
trong Thần phả được dân gian truyền tụng truyện kể về một Thần nữ là con gái Mẹ
Âu Cơ. Đây là cả một hệ thống Nữ thần như các bà chúa Dâu dạy dân trồng dâu
nuôi tằm, bà Chăm Chỉ của làng Đại Trạch dạy dân se tơ chỉ... Dân gian vẫn tổ
chức lễ hội hàng năm trong đó có lễ rước nước, đưa kiệu xuống thuyền.
Theo truyền thuyết thì Mẹ Âu Cơ sinh ra
trăm trứng nở ra một trăm con trai để rồi Bố Lạc dẫn 50 con xuống miền sông
nước, Mẹ Âu dẫn 50 con lên núi chia nhau mà trị. Một trăm người con trai mỗi
người định cư một nơi, xâm mình, cắt tóc, phát cỏ, lập ấp phát triển thị tộc
rồi mở mang đất nước phát triển giống nòi. Những chi tộc Việt như U Việt, Mân
Việt Dương Việt và Lạc Việt đã thành lập các quốc gia Bạch Lang, Dạ Lang, Việt
Lang, Văn Lang. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ. Việc
chuyển sang chế độ phụ hệ đã chấm dứt tục quần hôn và loạn luân được xem như
bước ngoặt tiến hóa của nhân loại. Ý nghĩa của mẩu truyền thuyết này xem như
một mốc tiến hoá quan trọng trong lịch sử nhân loại ở thời điểm khá sớm. Trong
khi đó ở Trung Quốc thời Thương còn duy trì mẫu hệ mãi đến thời Tần Thủy Hoàng
vẫn còn nên đã phải áp dụng những luật lệ khắt khe để chấm dứt chế độ mẫu hệ
còn rơi rớt ở Trung Quốc. Xã hội Việt
Nam thời Hùng Vương dù đã chuyển dần sang chế độ phụ hệ, nhưng ý nghĩa và vai
trò của người Mẹ vẫn được trân trọng bảo lưu mãi cho tới ngày nay. Sách Nam
Phương thảo mộc trạng của Kế Hàm thời Tấn ở thế kỷ thứ 3 còn ghi về truyền
thống tôn trọng nữ giới của Việt tộc như sau: “Người Việt có tục Nữ tửu tức là
Rượu con gái. Đúng vào ngày sinh con gái người nhà nấu rượu để vào hủ sành gắn
nắp lại rồi đem ra chôn ở bờ ao. Đến khi người con gái lớn lên, đi lấy chồng
thì trong ngày cưới, người nhà đào rượu ấy lên uống trong tiệc cưới”. Ngày nay
tập tục đó không còn nữa nhưng cha mẹ yêu quý con gái vẫn thường âu yếm gọi con
mình là con gái “rượu”, chính là phản ảnh tập tục truyền thống xa xưa của dân
tộc. Cách đây không lâu, tuy tập tục ở rể còn rơi rớt ở một vài địa phương
nhưng phần lớn các trường hợp do gia đình bên nhà trai gặp khó khăn hoặc gia
đình bên gái chỉ có một cô gái rượu nên bắt ở rể được sống gần con gái. Việc
tôn trọng nữ quyền của truyền thống Việt Nam khởi đi từ hình tượng Mẹ Tiên Âu
Cơ, người Mẹ sinh thành của Tổ Quốc Việt Nam xuyên suốt dòng vận động của lịch
sử. Sự bình đẳng nam nữ đã thể hiện ngay từ thời Hùng Vương, khác hẳn với Hán
tộc, một tộc người vẫn tự cho là văn minh, lên mặt giáo hoá dân tộc khác, nhưng
vẫn duy trì hủ tục mang tính quan liêu gia trưởng trọng nam, khinh nữ. Quan
niệm coi thường giá trị của phụ nữ không được ra khỏi nhà, phục vụ chồng của
Hán tộc mới du nhập vào nước ta từ thời Hán thuộc, một thời được các hủ nho rập
khuôn nào là nữ nhi ngoại tộc (con gái là con người ta) nhất nam viết hữu, thập
nữ viết vô (chỉ một trai cũng là có, mười gái cũng như không). Thế nhưng, dù bị ngàn năm đô hộ của Tàu, văn
hoá Việt với sức sống vô biên của một dân tộc đã đẩy lùi âm mưu nô dịch văn hoá
của Hán tộc. Thật vậy, tuy phụ nữ không còn giữ vai trò quyết định như trong
chế độ mẫu hệ nhưng họ vẫn được tôn trọng, thiên chức làm mẹ, làm vợ, vẫn được
xã hội đề cao. Tuy không còn là gia trưởng nhưng giới phụ nữ vẫn được coi là
nội tướng, người giữ tiền bạc của gia đình. Quan hệ vợ chồng không bất bình
đẳng như xã hội Trung Quốc, đồng thời nó cũng không bình đẳng thái quá kiểu Tây
phương để đi đến chỗ dễ đổ vỡ, ly dị, hậu quả là con cái thiệt thòi, gia đình
ly tán. Gia đình là nền tảng của xã hội, nên mối tương quan vợ chồng Việt Nam
dựa trên sự đồng thuận của cả vợ lẫn chồng “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông
cũng cạn”. Đời sống vợ chồng không chỉ là hạnh phúc lứa đôi mà còn là tổ ấm
nuôi dưỡng giáo dục con cái. Tình nghĩa vợ chồng Việt Nam đầm ấm thân thương,
xem người phối ngẫu của mình là nơi trú ngụ che chở cho họ nên vợ hay chồng vẫn
dùng chung chữ “nhà tôi” để chỉ chồng hay vợ. Tình yêu thương chồng vợ còn thể
hiện qua cách xưng hô thân mật, xem người yêu như chính bản thân mình nên
thường gọi nhau là “Mình, Mình ơi!”. Về sau vai trò phái nam được coi trọng hơn
vì truyền thống thừa tự, hương hoả để thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ nên
“chồng nói vợ nghe” nhưng nếu trong các dịp lễ Tết, Giỗ chạp nếu không có mặt
người vợ thì xem như chưa đủ lễ nghĩa của đạo vợ chồng. Tương lai của các con
mới chính là hạnh phúc của cha mẹ, nên người phụ nữ Việt Nam sẵn sàng hy sinh
tất cả cho chồng con, nhưng không vì thế mà bị xem thường. Trái lại hình ảnh
người mẹ sống mãi trong tâm tư của con cái, cho dù đứa con đã lập gia đình
riêng. Từ lúc đó, con cái dù đã lập gia đình nhưng vẫn phải sớm hôm phụng dưỡng
cha mẹ già từ miếng ăn, giấc ngủ, thuốc men những khi đau ốm. Đây là đạo lý làm người của người Việt Nam
khác hẳn với xã hội phương Tây trong đó, quyền tự do cá nhân đề cao thái quá.
Chính vì vậy, con cái lớn lên lập gia đình riêng thường lơ là, thiếu sót bổn
phận làm con, thậm chí gửi cha mẹ già vào viện dưỡng lão, sống cô đơn trong
tuổi già buồn bã. Phụ nữ Việt thường nhịn nhục chiều chồng chiều con, chịu
thiệt thòi về phần mình để lo cho chồng cho con nhưng bù lại cho đến cuối đời
lúc nào cũng sống trong hạnh phúc với chồng bên đàn con cháu thương yêu ruột
thịt. Khởi nguyên từ hình tượng Mẹ Tiên
cao cả đã tiềm ẩn “Nguyên lý Mẹ” trong tâm thức mỗi người Việt để truyền lưu
mãi tới ngày nay. Chính truyền thống cao đẹp này của dân tộc đã sản sinh ra
những bậc nữ lưu vĩ đại như Hai Bà Trưng, Bà Triệu và bao nhiêu nữ anh hùng
nữa, những bậc anh thư của Việt tộc đã góp phần to lớn trong công cuộc bảo vệ
đất nước mà không một dân tộc nào có được.
Rồng thời Nguyễn
Hình tượng Rồng Thái và Rồng Lào cùng
chung mô típ với Rồng thời Lý
Rồng ở chùa Wat Phrasingh, Chieng Mai Thái Lan
(lyhocdongphuong.org)
Mặt ngọc thạch hình
Rồng-Phượng của
Triệu Văn Vương trong Lăng mộ của vua Nam Việt
(The Museum of the Nanyue
King. Nguyenxuanquang Blog).
SỬ THI
BỐ LẠC-MẸ ÂU, UYÊN NGUYÊN NỀN MINH TRIẾT VIỆT NAM.
Mỗi dân tộc đều có một vật tổ biểu trưng,
trong khi Việt tộc lại có hai vật tổ song trùng đó là Tiên Rồng. Ngay từ thời
đá mài Bắc Sơn cách nay khoảng 7000 năm người ta đã tìm được những hòn sỏi mài
nhẵn có gạch 2 vạch song song mà theo các nhà nghiên cứu thì đó là nét song
trùng, hay là nét lưỡng hợp. Đặc điểm của huyền thoại Việt Nam là luôn luôn có
những danh từ kép như sông núi, đất nước, nóng lạnh, sáng tối, trong ngoài, âm
dương, nước nhà, nhà nước biểu trưng lưỡng thể tính âm dương đối lập trong sự
thống nhất hài hoà. Ngày nay mọi người
đều nhận chân được ý nghĩa và giá trị của truyền thuyết là những trang chiếu
giải trung thực nhất của người xưa.
Vấn đề là chúng ta, thế hệ con cháu phải
tìm về nguồn cội xa xưa để lý giải ngữ nghĩa hàm ẩn trong chiều sâu ý niệm tâm
linh của dòng sống sinh động Việt cổ. Đó chính là quan niệm sử theo chiều dọc
mà chúng ta gọi là huyền sử. Truyện xưa kể rằng mối tình Rồng Tiên của đôi vợ
chồng nhân thần để rồi ba sinh hương lửa mặn nồng đã sinh ra bọc điều trăm
trứng, nở ra trăm con trai khôi ngô tuấn tú lạ thường. Bố Rồng trở về thủy phủ
để Mẹ Tiên ở lại nuôi con. Mẹ con cùng đường, tính trở về quê ngoại nhưng chiến
tranh loạn lạc nên không về được.12 Mẹ con lẻ loi đơn chiếc chỉ biết
ôm nhau khóc lóc kêu gào mong bố trở về: “ Bố ơi! Bố ở đâu mau về cứu chúng con
…”. Rồi một hôm, Bố Rồng bỗng nhiên về gặp Mẹ Tiên ở bến nước sông Tương để tạ
từ ly biệt.
Tự thân của mẩu truyền thuyết này là uyên
nguyên triết lý của sự tương sinh tương khắc, tan hợp hợp tan, quy luật muôn
đời thường hằng bất biến của vạn vật muôn loài. Bến nước sông Tương ngàn trùng
xa cách từ buổi ấy, đầy ắp những giọt nước mắt chia ly đã là hồn thơ muôn thuở
của thi nhân:
Bố về gặp Mẹ bến sông Tương
Giọt lệ sầu đong nghĩa vợ chồng Ngàn
năm tự thuở chia ly ấy. Huyền sử Rồng Tiên giống Lạc Hồng…
Giọt lệ sầu đong của Mẹ đã khiến bố Lạc
ngậm ngùi tha thiết giãi bầy: “Ta là
giống Rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống Tiên sống ở trên đất, vốn không ở
được với nhau lâu. Tuy nhiên âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống
tương khắc như nước với lửa khó bề ở lâu với nhau được. Nay phải chia ly. Ta
mang 50 con về Thủy Phủ chia trị các nơi, còn nàng đem 50 con về ở trên đất
chia nước mà trị. Những lúc lên non xuống biển có việc cùng nhau gắn bó với nhau
đừng bỏ rơi nhau”. Mẹ Âu dẫn 50 con lên núi, suy tôn người con trưởng lên
làm vua đặt tên nước là Văn Lang. Còn mối tình nào trên thế gian này cao đẹp
tuyệt vời như thiên tình sử Tiên Rồng, tuy huyền nhưng không ảo, tuy mơ nhưng
lại thực và sự hiện hữu của cộng đồng Bách Việt là một hiện thực lịch sử của
huyền sử Tiên Rồng:
Việt Nam thi sử truyền ghi,
Âu Cơ Tiên nữ kết nghì Lạc Long, Công Chúa
Viêm Đế vốn dòng, Theo cha
du ngoạn non bồng Nam phương, Động Đình kết mối uyên
ương,
Thuyền quyên lòng đã mười thương anh hùng! Sắt cầm hoà hiệp nguyện chung, Trăm
năm kết nghĩa vô cùng nên thơ, Ba sinh
hương lửa đợi chờ,
Mặn nồng tình nghĩa ngây thơ thẹn thùng, Bọc điều trăm họ thai chung,
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam Thân thương cao cả
vô vàn,
Hồn thiêng sông núi mang mang lòng người, Truyền kỳ lịch sử bao
đời
Cội nguồn dân tộc tuyệt vời Rồng
Tiên ..!
Truyền thuyết Rồng Tiên là một triết lý văn
hoá tuyệt vời. Hình tượng Bố Rồng, Mẹ Tiên là hình tượng nguyên sơ, uyên nguyên
nguồn cội của triết lý Âm Dương, biểu tượng bởi đôi vợ chồng nhân thần Bố
Lạc-Mẹ Âu. Bố Rồng-Mẹ Tiên là những anh hùng khai sáng văn hoá không những của
dân tộc Việt mà còn là của cả nhân loại nói chung. Mẹ Tiên, người Mẹ Âu Cơ của dân
tộc dạy con cái làm rẫy, trồng khoai, trồng lúa ven núi, trồng mía ven sông,
đào giếng, dệt vải, ép mật, thổi xôi, làm bánh. Đó là người Mẹ của giống dòng
Bách Việt, người Mẹ của Tổ Quốc Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau. Bố Rồng diệt quái vật, Ngư tinh, mộc tinh, hồ
tinh để giúp dân yên ổn làm ăn sinh sống. Bố Rồng còn dạy con dân cách thức xâm
mình, vẽ mình để khỏi bị thủy quái làm hại. Bố là hình ảnh tượng trưng cho ý
chí sức mạnh truyền thống của Việt tộc, còn mẹ là hình ảnh biểu trưng của tình cảm
nhân ái hiền hoà của dân tộc như một biểu tượng nòi giống Rồng Tiên:
Sữa Mẹ Âu tuôn dòng nhân nghĩa, Máu Bố
Lạc hừng chí hùng anh”.
Từ ý niệm Đất Nước, Núi sông đến Cha Trời,
Mẹ Đất thể hiện triết lý sống trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là biểu tượng tín ngưỡng tự nhiên nguyên thủy của nền văn
minh nông nghiệp thời cổ đại. Mặt trời, ánh sáng cần thiết cho sự sống ban
ngày. Ngôi sao, mặt trăng ban đêm, là giấc ngủ không thể thiếu được trong đời
sống con người. Đất là Mẹ ấp ủ dưỡng nuôi để hạt giống nảy mầm khai sinh sự
sống. Nước mưa của cha từ trên trời rơi xuống lòng đất mẹ cùng với ánh nắng mặt
trời, ánh sáng của tình yêu thương, đã tạo ra muôn vật muôn loài, sinh sôi nẩy
nở, đơm bông kết trái. Từ những ý niệm khởi đoan, cùng với sự chiêm nghiệm thực
tế đã hình thành triết lý Âm Dương dịch biến, quy luật căn cơ muôn đời của vạn
vật trong cuộc biến diễn thường hằng bất biến. Truyền thuyết Việt Nam biểu
trưng giá trị đích thực của con người, với ý nghĩa nhân chủ trong văn hoá khởi
đoan của một nền triết học do con người dẫn khởi mà vẫn hài hoà với vũ trụ muôn
loài. Đề cao con người, tôn trọng sự sống của con người và muôn loài, muôn vật
trong đó con người vẫn cao quý thiêng liêng hơn hết. Người là mục đích đầu tiên
và cũng là cùng đích để phục vụ trong cuộc sống. Sự hài hoà giữa tinh thần và
vật chất, giữa tâm linh và thể xác, ý chí và tình cảm được biểu tượng bởi đôi
vợ chồng Nhân Thần:
Bố Rồng (ý chí) + Mẹ Tiên (tình cảm) = con
người
Bố Lạc (sức mạnh) + Mẹ Âu (tâm
linh) Việt Nam
(Vật chất ) (tinh thần) toàn diện
Con người cao quý hơn muôn loài, làm chủ
muôn loài muôn vật, nhưng vẫn hòa tâm cùng không gian, hòa tính cùng thời gian,
hòa thông cùng vũ trụ. Đó là quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nhân thân tiểu
thiên địa của lý nhất trung trong triết lý Đông Phương. Nhân linh ư vạn vật vì
con người có một đời sống tâm linh cao vời sâu thẳm cùng với ý chí, nội lực tự
thân trong cuộc sống. Chính ý chí và nội lực của con người đã không ngừng sáng
tạo, lao tác chinh phục khống chế thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu hạnh phúc
an lạc của cuộc sống con người. Bố Rồng, Mẹ Tiên của truyền kỳ lịch sử cũng
chính là Bố Lạc, Mẹ Âu của hiện thực lịch sử đã tạo thành sức sống mãnh liệt vô
biên của dân tộc từ thời lập quốc cho đến ngàn sau. Dân tộc Việt đã chinh phục
thiên nhiên, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù dưới bất kỳ danh nghĩa nào, để
khẳng định trước nhân loại: Một dân tộc anh hùng đã có gần năm ngàn năm văn
hiến. Chính truyền thống yêu nước thương nòi xuất phát từ lòng tự hào dân tộc
con Rồng cháu Tiên, với ý chí kiên cường bất khuất, tinh thần hy sinh quả cảm
đã và sẽ đánh bại những kẻ thù xâm lược bạo tàn, từ đế quốc “Đại Hán” thống trị
thâm độc xa xưa đến chủ nghĩa Cộng Sản bạo tàn quỷ quyệt nhất hôm nay. Sức sống
Việt Nam đã được Hán Hiến Đế, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc phải tuyên dương “Giao Chỉ là đất Văn hiến, núi sông un đúc,
trân bảo rất nhiều, Văn vật khả quan, Nhân tài kiệt xuất…”.
Nền minh triết Việt khởi nguyên từ thần tổ
kép Tiên Rồng, uyên nguyên của triết lý Âm Dương Việt cổ, tinh túy của triết
học phương Đông. Âm Dương biểu tượng cho 2 mặt đối lập tương sinh tương khắc
nhưng không dẫn đến triệt tiêu, hủy diệt lẫn nhau mà cùng nhau tương hoà theo
lý đối lập thống nhất. Trong vũ trụ vạn vật muôn loài đều có 2 mặt đối lập với
nhau nhưng vẫn cần thiết có nhau, tương hòa để tồn tại. Nếu thiếu một trong 2
yếu tố căn bản hoặc âm hoặc dương thì sẽ không có muôn loài muôn vật. Nếu như
chỉ có nam mà không có nữ hoặc ngược lại thì cũng chẳng có loài người. Tuy nam
đối lập với nữ về nhiều mặt từ vóc dáng thể chất đến tình cảm tâm hồn nhưng cả
hai lại có tương sinh nếu hợp nhất lại: Nữ (Âm) + Nam (Dương), tình cảm + lý
trí, tinh thần + vật chất thì sẽ sinh thành con cái để truyền chủng tạo ra nhân
quần xã hội loài người.
Thực tế cuộc sống được chiêm nghiệm suốt
chiều dài của lịch sử loài người, đó là tuy đối lập nhưng vẫn hài hòa, thống
nhất trong đa dạng thì loài người mới tồn tại mãi tới ngày nay. Bất cứ muôn
loài muôn vật muốn tồn tại phải “tương hòa”, đó chính là đạo “Thái hòa” của nền
minh triết Việt Nam. Hòa hợp ngay tự bản chất mỗi vật, hòa hợp ngay chính bản
thân mỗi người như thể xác với tâm hồn, tình cảm với lý trí, tâm với tính, hài
hòa với thiên nhiên, hài hòa trong ứng xử giao tiếp với tha nhân, duy trì mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác để cùng
tồn tại chứ không cực đoan, mưu đồ tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống đòi
hỏi chúng ta phải cùng tôn trọng nhau, chấp nhận nhau dù có sự khác biệt. Phải
chấp nhận thống nhất trong đa dạng, lấy yếu tố con người làm đích điểm để cùng
chung sống trong hòa bình. Đó chính là triết thuyết Nhân bản cộng tồn, lấy con
người là chính để cùng chung sống trong hòa bình an lạc của nền minh triết
Việt.
Trong khi các quốc gia khác trên thế giới
thường chọn một vật tổ biểu trưng, một ý thức hệ làm đích điểm nên đắm chìm
trong duy lý cực đoan của nhị nguyên luận. Quan niệm duy lý đã dẫn tới thái độ
cực đoan, không chấp nhận bất cứ cái gì khác, A là A chứ không thể vừa A vừa B
được. Chính đầu óc duy lý cực đoan trên đã đưa nhân loại đến bế tắc, đến ngõ
cụt là một cuộc chiến tranh hủy diệt, hậu quả của lý đối lập loại trừ. Nhân
loại đang trải qua thời kỳ khủng hoảng, bế tắc của tư tưởng nên hết chiến tranh
ý hệ lại quay sang chiến tranh dân tộc và tôn giáo đe dọa sự sống còn của nhân
loại. Chỉ có nền minh triết siêu việt nhân bản tâm linh Việt mới đưa nhân loại
thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay để giải quyết vấn đề nhân sinh trước thềm
thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
CHÚ THÍCH
1.
Đại Việt Sử Lược tác gỉa khuyết danh, Bản dịch của Trần Quốc Vương, NXB Thuận
Hoá 2001, tr 17.
2-3.
Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ, Lê Hy: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Viện Khoa Học Xã Hội
Việt Nam phát hành (1993) dịch từ bản in năm Chính Hòa thứ 18 (1697) là Nội các
quan bản. Bản chính của Nội các quan bản hiện đang lưu giữ tại thư viện của
trường Viễn Đông Bác Cổ Paris.
4.
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Nguyên về Hán ngữ và các phương ngữ Bách Việt
ở Trung nguyên. Nhà nghiên cứu Nguyễn Nguyên dẫn tác phẩm “Người Hmong” của Chu
Thái Sơn cho biết họ Lý là dòng họ chính của đồng bào Dao nên năm 1060, vua Lý
Anh Tông mới cho dựng đền thờ Xuy Vưu ở phường Bố Cái. Dòng họ Lý là dòng họ
chính ở bán đảo Triều Tiên nên được xem như hậu duệ của Hmong Dao. Thực tế này
được thư tịch cổ TQ xác nhận là khi Lạc bộ Trĩ gồm Bách Bộc mà cổ sử Trung Quốc
gọi là rợ Đông Di bị đánh bật khỏi lưu vực sông Bộc và bán đảo Sơn Đông đã
thiên cư lên Đông Bắc thành lập nước Cao Câu Ly mà sử TQ gọi miệt thị là rợ Tam
Hàn. Lịch sử Hàn Quốc cũng ghi nhận có một Tổng Thống họ Lý là Lý Thừa Vãn và
cũng không phải tình cờ mà sau khi nhà Trần diệt nhà Lý mà Lý Long Tường phải
chạy ngược lên Triều Tiên để tỵ nạn vì đó là nơi đồng chủng định cư từ lâu
đời.Chính vì vậy, quan niệm cho rằng dân tộc Việt là một cộng đồng dân bao gồm
54 dân tộc là một quan niệm sai lầm, phản dân tộc vì đã phủ nhận cội nguồn gốc
tích của Việt tộc. Không thể có một dân tộc Kinh vì dân tộc Kinh là dân tộc
nào? Thực ra đây chính là chi tộc Việt
sống ở châu Kinh mà thôi. Cũng như không thể có một dân tộc Tày, dân tộc Mnong,
dân tộc Thái, dân tộc Hmong, dân tộc Mường mà chính là những chi tộc Việt trong
Bách Việt.
5.
Cổ thư chép là cả Vua Thuấn và ông Vũ đều mặc áo lông chim rồi cầm khiên múa
điệu vũ Li Vưu. Sau 3 năm là con số linh của Việt tộc thì Tam Miêu mới chịu phục
vì nhận ra Thuấn, Vũ có cùng một nền văn hoá, cùng một chủng tộc. Theo Đổng
Trọng Thư thì Li Vưu là cổ thiên tử, là vua phương Nam trước là viên quan xem
thiên văn có cánh mà không bay được hàm ý chỉ người thuộc chi Âu Việt thờ chim.
Tương truyền Li Vưu là rồng vàng cao cả, là người có 4 mắt, 6 tay với 2 phụ tá
là thần gió và thần mưa. Công trình nghiên cứu của Kim Định cho biết Li Vưu
cũng là tên một bài múa gồm nhiều vũ nhân nhất 9.9 = 81. Li Vưu cũng chỉ lá cờ
hay xuất hiện trên bầu trời như hình sao chổi đuôi cong, nền cờ đỏ ở giữa có
hình tròn màu vàng mà sau này Hoàng Đế Quang Trung cũng chọn lá cờ này. Theo
nhà nghiên cứu Vũ Bình người Trung quốc thì khi giải mã chữ “Vũ” cổ đã cho rằng
đó là dáng múa của cư dân nông nghiệp khi cầu mưa. Vũ nhạc có quan hệ mật thiết
với lễ dâng hương của truyền thống thờ cúng thần mặt trời, thờ cúng tổ tiên của
cư dân nông nghiệp.
6.
chữ “Việt 易” là chữ Dịch “易” là mặt trời
(“Nhật日Việt”) chiếu sáng được đơn giản hóa và xếp theo
nghệ thuật, các “tia sáng “勿” được gom lại để ở phía dưới theo chữ “Vuông”
vừa đúng vừa đẹp. Kinh “Dịch 易” là kinh “Việt 易”,
nước “Dương 楊”-Việt là thêm chữ “mộc 木”
vào chữ nầy.
7-8.
Hoàng Thị Châu: Mối Liện hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua tên sông ở Việt
Nam (Thời Đại Hùng Vương, NXB Hà Nội).
9.
Lê Xuân Diệm: Thời Dựng Nước, Lịch Sử Việt Nam Tập 2 tr 40. Tưởng Bỉnh Khiêm,
Ngô Miên Cát, Hạnh Thổ Thành” Văn hoá Dân tộc Bách Việt”, NXB Học Thuật Hạ Môn,
Trung Quốc, 1986, tr 401.
10.
Việt tộc có vật tổ biểu trưng là chim nên xem cái chế nhẹ như lông chim Hồng,
trong khi Hán tộc du mục sống trên lưng ngựa nên xem cái chết như “Da ngựa bọc
thây” là như thế. Núi Thái Sơn: Núi Thái Sơn ở Sơn Đông Trung Quốc bây giờ. Sở
dĩ dân gian so sánh công cha với ngọn núi Thái Sơn vì vùng Sơn Đông là địa bàn
cư trú của người Việt cổ mà cổ sử TQ gọi là “Lạc bộ Trĩ”. Từ thời Thương đã
đánh đuổi Lạc bộ Trĩ phải rời bỏ vùng đất tổ này chạy xuống phương Nam. Một số
chạy ngược lên bán đảo Triều Tiên thành lập nước Cao Câu Ly và chạy sang Nhật.
11.
Theo “Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” thì sau chiến thắng lẫy lừng Đống Đa đẩy
lùi 20 vạn quân Thanh xâm lược, Hoàng Đế Quang Trung cử La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp làm Quốc Sử quán, khâm mệnh nhà vua về làng Vân Lôi để nghiên cứu bản “Bách Việt Từ đường Tộc phả”. Sau đó, vị
Hoàng Đế anh minh lỗi lạc của dân tộc đã
thân hành đến nói chuyện thân mật với các vị bô lão, hương chức và dân làng Vân
Lôi. Theo nhà nghiên cứu Bùi văn Nguyên thì bản “Bách Việt Ngọc phả Truyền thư”
do trưởng họ Nguyễn Đức ghi vào năm thứ tư đời Đinh Tiên Hoàng tức năm Tân Mùi
971 hiện còn lưu giữ ở làng Vân Lôi Hà Tây mà xưa kia là làng Vân Nội thuộc phủ
Thanh Oai tỉnh Hà Nội. Từ đường họ Nguyễn gốc ở làng Vân Nội thờ từ Tổ Phục Hy
gọi là Đế Thiên và Thần Nông gọi là Đế Thần trở xuống cho đến các vua Hùng.
Theo đương kim Tộc trưởng ông Nguyễn văn Tằng thì đền thờ từ Kinh Dương Vương
xuống tới các vị vua triều Nguyễn. Trong từ đường có bức hoành phi và đôi câu
đối do triều Nguyễn tặng: “Quốc Ân Gia Khánh” nghĩa là Lộc nước phúc nhà. Đôi
câu đối là “Muôn thuở phúc nhà lòng kính Tổ,
Chín trùng lộc nước áo vua ban”.Theo nhà nghiên cứu Bùi văn Nguyên thì
sở dĩ có họ Nguyễn gốc là vì tổ tiên ta lấy địa danh cái gò núi đất ở Vân Lôi xưa
kia là Phong Châu nơi họ Nguyễn sinh tụ. Chữ Nguyễn bên trái chữ phụ là cái gò
đất, bên phải là chữ nguyên nghĩa là đầu tiên. Trong khi đó, một nguồn thư tịch
khác cho biết là ngay từ thời cổ đại ở Cam Túc một tỉnh tiếp giáp với vùng Tam
Giang Bắc, trên đường thiên di của Việt tộc đã sinh tụ tại đây nên cổ thư đã
nói tới họ Nguyễn, một nước Nguyễn (Rhuan). Về sau họ Nguyễn thiên cư dần xuống
trung nguyên rồi Hoa Nam và Việt Nam bây giờ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đều
ghi nhận rằng Việt Nam có 3 dòng họ lớn là họ Nguyễn, họ Trần và họ Lê. Trong 3
họ này, họ Nguyễn là đông nhất vì theo các nhà nghiên cứu thì họ Nguyễn đã
thiên cư dần từ Cam Túc, Thiểm Tây xuống Hoa Nam rồi Việt Nam. Mặt khác, đời
Trần vào thế kỷ 12 sau khi sắp xếp để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh,
Thái sư Trần Thủ Độ lấy cớ ông tổ họ Trần tên Lý nên bắt tất cả những ai mang
họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn. Chính vì vậy họ Nguyễn ngày càng đông hơn.
12.
Thuỷ Phủ: Tên vùng đất nơi bố Lạc dẫn 50 con về miền sông nước ven bể. Thời kỳ
đó vùng đất này bao gồm từ cảng Thành Đô Tứ Xuyên tới Quảng Tây Quảng Đông còn
là biển cả mênh mông nên sử sách xưa gọi là Nam Hải. Từ trước tới nay chúng ta
cứ nghĩ là Bố Lạc dẫn 50 con xuống nước là thuỷ phủ. Thế nhưng gần đây thạc sĩ
Sử địa người Pháp là P. Gouron và J. Loubet, thạc sĩ văn chương đã xác nhận địa
danh “Thuỷ Phủ” (Suifu) trong tác phẩm “L' Asie moins L'AsieRussia” năm 1920
được in trên tấm bản đồ Pacilic Osean. Thuỷ Phủ ngày xưa chính là cảng Thàn
h Đô
phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên bây giờ. Trên tấm bản đồ New International ATLAS
of the world của Geographical Publishing Company ấn hành năm 1949 cũng có địa
danh Thuỷ Phủ là Suifu, hiện là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên
Trung Quốc bây giờ. Sự thật lịch sử này đã minh chứng hùng hồn tính hiện thực
của huyền thoại Rồng Tiên.
Cột trạm trổ rồng trong cung điện tại Huế.
Rồng của Người Việt cổ ở Trung Hoa
Rồng phương Tây
Rồng thời Việt Nam Cộng Hòa
No comments:
Post a Comment