Wednesday, October 14, 2015

NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT. CHƯƠNG MỘT DẪN NHẬP

CHƯƠNG  I


DẪN NHẬP




Thiếu Nữ Nùng


Thiếu Nữ Mường


Thiếu Nữ Thái


Thiếu Nữ Hmong


Thiếu Nữ Chàm


                      Thiếu Nữ Việt                                   

  

    Kể từ khi nhân loại có chữ viết thì đã nhận thức rằng  việc ghi chép những sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội của một quốc gia là điều cần thiết và sử biên niên đã ra đời. Người ta ghi chép theo thứ tự thời gian, ngày giờ, năm tháng, những sự kiện xảy ra trong một triều đại. Lịch sử tự thân là sự thật khách quan và người chép phải tôn trọng sự thật, phải thật sự khách quan trung thực. Thật vậy, sự kiện lịch sử là sự thật tồn tại độc lập bên ngoài ý thức của con người nhưng Polibius, nhà sử học Hy Lạp thế kỷ thứ II TDL đã nhận thấy rằng trong sử học có tính thực dụng nghĩa là lịch sử phải  phục vụ cho chế độ nên sự thật lịch sử bị chà đạp một cách trắng trợn. Nhận thức lịch sử thường lại chủ quan và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau. Sự sùng bái cá nhân lãnh đạo hoặc do yêu cầu đấu tranh tư tưởng, tô hồng chuốt lục, đánh bóng cá nhân và chế độ nên lịch sử đã bị lợi dụng. Sự thật bị bóp méo, xuyên tạc hoặc thổi phồng cho phù hợp với ý đồ của bạo chúa độc tài. Chính vì vậy, lịch sử thành văn ngày nay đã không còn giữ được ý nghĩa trung thực cao đẹp của buổi biên niên ban đầu nữa.


     Cicéron, sử gia nổi tiếng thời La Mã cổ đại đã định nghĩa: “Lịch sử là lịch sử chính yếu của cuộc sống (Historia magistra vitae) gắn liền với ánh sáng của sự thật (lux véritatis)”. Trong tác phẩm De Oratore, Cicéron cho rằng “Người viết sử phải tôn trọng 2 điều luật: Điều thứ nhất buộc các nhà chép sử không được nói nhiều điều giả mạo. Điều luật thứ hai buộc nhà chép sử phải nói lên tất cả những gì là sự thật nghĩa là ghi rõ sự kiện xảy ra theo thứ tự ngày giờ năm tháng vì chỉ như thế mới đạt yêu cầu trung thực của một sự kiện lịch sử”. Thế nhưng thực tế đã hoàn toàn trái ngược với những gì Cicéron quan niệm. Mỉa mai thay “Nữ thần Clio” của nền văn minh Hy Lạp biểu tượng cho sử mà ngữ nghĩa của chữ Clio theo ngôn ngữ cổ Hy Lạp lại có nghĩa là ngợi khen, ca tụng. Nói là một chuyện nhưng thực tế lại là chuyện khác vì trong vòng cương tỏa của danh lợi nên Cicéron đã đánh mất lương tri của con người và tính khách quan trung thực, sự vô tư trong sáng của một sử gia chân chính khi ca tụng bạo chúa khét tiếng Néron. Cicéron đã hết lời ca tụng cái thú vui vô nhân đạo của Néron buộc hai người nô lệ phải chém giết lẫn nhau để một người được sống. Thật chua xót khi Cicéron lợi dụng ngôn từ để đặt bút viết một cách trơ trẽn “Vui thú biết bao, giải trí biết bao cho một tinh thần đã được nhân bản hoá, được tinh luyện khi xem một người đi săn người, đánh trúng ngực một trong những kẻ giống ta, một kẻ yếu đuối bị xé xác bởi một con thú mạnh mẽ hơn”. Phải chăng, cái thú tính “mạnh được yếu thua” bất kể luân lý đạo đức đã lấn át tính người nơi “động vật cao cấp” Cicéron ? Chính Sénèque, một sử gia táng tận lương tâm khác, kẻ đã lên tiếng bào chữa, bênh vực cho hành động bất nhân giết mẹ đẻ của Néron, cũng phải lên án cảnh tượng dã man của trò vui “giác đấu” vì theo Sénèque thì “Người đối với người là một vật linh thiêng lại bị đem đi giết để làm trò vui ư?”.
        


     Nền văn minh Phương Tây khởi đầu bàn về yếu tính của sự vật chứ không phải khởi đầu từ nhân tính như triết học Đông Phương. Nhân loại sau một thời gian dài sống dưới sự ngự trị của thần quyền mãi tới thời Socrate với chủ nghĩa duy lý đã giải phóng con người ra khỏi sự nô lệ thần quyền. Socrate đã phá bỏ ách thần thoại, đánh đổ quan niệm cổ hủ đã bóp chết tự do tư tưởng của con người. Chủ nghĩa duy lý đạp đổ thần quyền kéo theo sự sụp đổ của cả chế độ Hy Lạp xây dựng trên nền tảng thần thoại để mở đầu cho một thời kỳ mới trong lịch sử. Thế nhưng nhân loại vừa thoát khỏi sự nô dịch của thần quyền lại bước vào thời kỳ độc tài duy lý ngự trị khống chế tư tưởng nhân loại suốt 25 thế kỷ. Saint Paul đã gọi nền triết học La-Hy là hoàn toàn thế tục vì nó tự giam mình trong phạm trù hạn hẹp của lý trí nên dẫn người ta đến tư tưởng độc hữu. Tình trạng thái quá của ý niệm chiếm hữu dẫn tới độc tôn, độc tài duy lý với mọi biến thái của nó, không bao giờ siêu vượt lên hiện tượng để thấy rõ bản chất của sự vật. Một sự thật phũ phàng là nhân loại càng văn minh bao nhiêu thì những quan niệm về sử lại đối kháng bấy nhiêu. Lịch sử càng xa rời sự thật nên Agustin Thière đến thế kỷ XIX mới bứt thoát khỏi vòng vây của duy lý để nhận ra một chân lý đó là “Lịch sử thật chỉ tìm thấy trong các giai thoại truyền kỳ, đó là sử dân gian truyền tụng sống động. Có thể nói rẳng ¾ nó thật hơn những cái mà chúng ta gọi là lịch sử”. Thật vậy, truyền thuyết không hẳn là sự thật lịch sử nhưng những nhân vật, những chứa đựng trong truyền thuyết là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của một thời đại tạo dựng tỏa sáng nhưng nó còn chờ người đời sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý giải nên JUNG, triết gia thời đại của chúng ta đã nhận định: “Truyền thuyết, thần thoại với những ẩn tàng hàm chứa một ý nghĩa đặc trưng của mỗi nền văn hoá riêng biệt với bản sắc độc đáo đặc thù của nền văn minh mỗi dân tộc”.


            Vào thời quân chủ phong kiến người ta viết sử để ca tụng vua chúa, bạo quyền thì đến thời đại văn minh, nền văn minh duy lý với cái gọi là yêu cầu tự do tư tưởng và do ý thức đấu tranh tư tưởng nên có hai quan niệm sử đối chọi nhau. Thật vậy, sử quan duy tâm với quan niệm thần bí cho rằng mỗi dân tộc có một định mệnh riêng do Thượng Đế ban phát. Quan niệm này phủ nhận tính khách quan của lịch sử và sự quyết định của ý chí con người. Thomas Carlyle, nhà văn lớn của nước Anh cũng đề xướng quan niệm “Anh hùng tạo thời thế vì thế giới chính là sản phẩm của vĩ nhân. Lịch sử thế giới chỉ là tiểu sử của các danh nhân”. Trong khi đó, Alfred de Vigny chủ trương thuyết chủng tộc ưu việt, thuyết này cho rằng dân tộc Đức là dân tộc ưu việt được Thượng Đế chọn lựa.  Nietzche cũng ca tụng xiển dương chủng tộc Arian của Đức là ưu việt và siêu nhân của tầng lớp đặc tuyển như nhà xã hội học Áo Wieser quan niệm. Wieser cầu khẩn một lớp người siêu việt ra đời để thống trị nhân loại. Chính từ quan niệm cực đoan thiển cận trên cùng với chủ nghĩa duy vật cuồng tín đã dẫn tới sự hình thành của chế độ độc tài phát xít Hitler và chế độ Cộng sản mà hậu quả gây ra một tội ác ghê tởm trong lịch sử loài người. Hơn 20 triệu người thiệt mạng trong thế chiến thứ hai, hàng triệu người Do Thái đã bị đưa vào trại tập trung lên lò thiêu người sống, hàng trăm triệu người nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản. Đó là một vết nhơ để lại những đau buồn ray rứt lương tâm của nhân loại.        


     Thuyết tiền định thần bí lịch sử của Puskin về sau được Thomas cải biên gọi là thuyết Néo-Thomas giải thích những sự kiện lịch sử bởi một ý chí tuyệt đối ngoài sự tiên liệu, chủ động của con người. Néo-Thomas cho rằng lịch sử hướng tới mục đích nào đó được nhận thức thông qua lòng tin cuồng tín và sự mặc khải mà chỉ có Thượng Đế toàn năng mới quyết định số phận của mỗi cá nhân và cả vận mệnh lịch sử của một dân tộc. Théodore Lessing lại cho rằng lịch sử là sự vận động vô nghĩa và không mục đích của những lực lượng dị chất, là sự hỗn loạn của dòng thác các biến cố không thể điều khiển  được.


    Quan niệm duy tâm lịch sử có ảnh hưởng trong nhận thức của dân gian nhưng không thoả đáp được yêu cầu tri thức của thời đại, Thật vậy, Puskin nhận định Hoàng Đế Napoléon là người được thiên định chấp hành những định mệnh bí ẩn của lịch sử, trong khi chính Napoléon lại phủ nhận cái mà người ta gọi ông là thiên tài, là định mệnh thần bí gắn cho ông. Napoléon cho rằng thiên tài chính là kết quả của công trình học tập nghiên cứu được chuẩn bị sẵn sàng để lúc hữu sự nắm thời cơ, chủ động đối phó giải quyết một cách tài tình hữu hiệu mà thôi. Mãi đến thế kỷ XIX, quan niệm duy vật lịch sử ra đời phản bác những quan niệm siêu hình thần bí trên. Karl Marx cho rằng sự kiện lịch sử là hệ quả tất yếu của những quan hệ nhân quả và các sự kiện lịch sử tác động nhau một cách biện chứng. Sử quan duy vật biện chứng trên cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Duy vật sử quan phủ nhận tính thường hằng bất biến của định mệnh lịch sử, thế nhưng vẫn không thể lý giải được những quy luật thăng trầm đầy bí ẩn của lịch sử. Mặt khác lại rơi vào tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hoá, vĩ đại hoá cá nhân và tô hồng chế độ nên lịch sử ngày càng sai lạc, xa rời sự thật. Sự xụp đổ của Liên Sô và các nước xã hội chủ nghĩa đã xảy ra đúng như Karl Marx nói: “Lịch sử tác động lẫn nhau một cách biện chứng, nó không làm một cái gì nửa vời cả một khi muốn đưa hình thái xã hội già cỗi đến huyệt mộ thì lịch sử sẽ là tấn bi hài kịch của chính nó. Tại sao lịch sử lại diễn ra theo tiến trình ấy? Đó chính là để cho nhân loại rời bỏ được cái quá khứ ấy một cách vui vẻ vậy!”.
 


    Thật vậy, cuối năm 1988, cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra ở Ba Lan, sau đó lan sang Hungari, Tiệp Khắc, Cộng Hòa Dân chủ Đức, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani như một dòng thác cách mạng. Đảng Cộng sản và nhà nước các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần lượt buộc phải chấp nhận xóa bỏ độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản, thực hiện chế độ đa nguyên và tiến hành tổng tuyển cử tự do. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lịch sử: Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc quay trở lại theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Cộng Hòa Dân chủ Đức sát nhập vào Cộng Hòa Liên bang Đức. Trong khi đó, ngày 21-8 đảng Cộng sản Liên Sô bị đình chỉ hoạt động trong toàn liên bang, chính phủ Sô viết bị giải thể. Mười một nước cộng hòa tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Sô Viết. Một làn sóng chống đảng Cộng sản và chống Xã hội chủ nghĩa dâng khắp mọi nơi. Ngày 21-12-1991 chính thức thành lập các quốc gia độc lập SNG, buộc Tổng thống Liên Sô Mikhain Gorbachev phải từ chức và cùng ngày đó, ngày 25-12-1991 lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cẩm Linh (Kremlin) sau 74 năm bị hạ xuống. Đây là một thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa Cộng sản trên thực tế không còn tồn tại nữa.[1] Chính K Marx, người khai sáng ra chủ nghĩa Cộng sản đã nói ông không phải là người Cộng sản. Thật vậy, nếu K Marx  sống dưới thời Lenin, Stalin thì hẳn là K. Marx đã chết trong các trại cải tạo ngút ngàn ở Sibérie rồi và K. Marx cũng không thấy được nhân loại vui mừng thế nào khi Liên Sô và các nước Đông Âu sụp đổ vào cuối thế kỷ XX!          


      Ngày nay, với sự tiến bộ của nhân loại, quan niệm lịch sử thần bí không có tính thuyết phục và phản khoa học, đi ngược lại thực tế sinh động đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Mặt khác, nếu cho rằng lịch sử do ý thức của một người, một lớp người, với điều kiện hoàn cảnh xã hội tác động một cách biện chứng có thể đúng với từng sự kiện, từng thời kỳ lịch sử nhưng lại không lý giải được toàn bộ tiến trình của lịch sử. Thực tế, lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng, trong suốt tiến trình lịch sử của một dân tộc, tuy có những thời kỳ rời rạc thậm chí ngắt quãng nhưng thực ra dòng lịch sử vẫn vận động tiến triển theo một chiều hướng riêng biệt mà người ta thường gọi là định mệnh của một dân tộc. Hướng đi lịch sử như một sợi dây vô hình xuyên suốt tiến trình lịch sử một dân tộc, gắn liền các sự kiện, các biến cố lịch sử theo một chu kỳ vận động từ suy vong cùng cực tới tột đỉnh vinh quang rồi lại từ trên đỉnh cao hưng thịnh, xã hội tự nó nảy sinh những mâu thuẫn nội tại phá vỡ thế ổn định để rồi trở lại thời kỳ suy vong theo quy luật muôn đời thường hằng bất biến của chu kỳ Âm dương biến dịch.


     Lịch sử nhân loại chứng kiến biết bao hưng phế, thăng trầm của các dân tộc với những đỉnh cao vinh quang của nền văn minh rực rỡ để rồi lại tàn lụi theo thời gian kéo theo sự suy vong của cả một dân tộc. Tiến trình hưng vong của một dân tộc tùy thuộc vào tư tưởng chủ đạo, bản sắc văn hoá tạo thành sức sống của dân tộc đó. Chính bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện dân tộc tính với những tư tưởng chủ đạo nhân ái hoà bình mang tính truyền thống xuyên suốt toàn bộ dòng vận động lịch sử đã kết thành nền văn minh đạo đức Việt tồn tại mãi với thời gian. Ngược lại, những tư tưởng phi nhân từ quân chủ phong kiến chuyên chế, đến thực dân, độc tài phát xít, đế quốc rồi siêu đế quốc Cộng sản nhằm nô dịch con người, tước đoạt quyền sống căn bản tối thiểu của một con người, dù che đậy dưới những danh từ hoa mỹ như lý tưởng khai hoá giải phóng, xây dựng xã hội công bằng văn minh này, thiên đường Xã Hội chủ nghĩa nọ sớm muộn cũng sẽ cáo chung. Bài học lịch sử đã cho thấy một chế độ độc tài dù thống trị kềm kẹp dân chúng đến đâu cũng sẽ tiêu vong bởi chính ý chí của nhân dân một khi họ đã ý thức được thế nào là dân chủ chính thống, tự do thực sự, thế nào là dân chủ giả hiệu, lừa bịp mị dân…


           Nhà sử học lừng danh Arnold Toynbee trong tác phẩm nổi tiếng “Nghiên cứu lịch sử” (A study of history) đã nhận định: “Nếu thiếu những sự thử thách tức là thiếu những yêu cầu cấp thiết bức bách đòi hỏi phải biết vận dụng một cách vượt bực khả năng xoay chuyển tình thế thì không có điều kiện để một cộng đồng người thể hiện được hết sức mạnh và sự sáng tạo của họ. Chính những sự đáp ứng thích hợp trước những sự thử thách, sự vận dụng một  cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế đã đưa tới những thành tựu văn hoá lớn, đã tạo nên bản lĩnh của các dân tộc và có thể nói rằng lịch sử hình thành một nền văn minh lớn không bao giờ diễn ra trên một con đường bằng phẳng với những bước đi bình thản. Lịch sử luôn luôn tiến lên phía trước dù cho có sự lập lại trong hiện tại với những dạng thức nào đó, của những hiện tượng nào đó trong quá khứ thì lịch sử nói chung không bao giờ lập lại”.


           Vấn đề của thời đại chúng ta là phải phục hồi tính khách quan trung thực của sự thực lịch sử. Lịch sử đúng nghĩa không phải là để ca tụng, thần thoại hoá kẻ cầm quyền. Lịch sử cũng không phải để ghi chép những yêu cầu chính trị giai đoạn mà lịch sử phải trung thực khách quan để hậu thế quyền phán xét cuối cùng. Chúng ta không thể chấp nhận những chiêu bài giả nhân giả nghĩa là “Khai hoá giải phóng các dân tộc nhược tiểu” nhưng thực chất là để tuyên truyền biện minh cho chủ nghĩa thực dân, đế quốc, siêu đế quốc Cộng sản để nô dịch văn hoá, xoá bỏ dân tộc, tước đoạt quyền sống căn bản của con người đưa con người trở lại thân phận nô lệ thời trung cổ. 


    Chính vì thế, chúng ta không thể chấp nhận một loại sử quan chính trị luôn luôn tô hồng chế độ, thần thánh hoá lãnh tụ vĩ đại như một Stalin, một Mao Chủ tịch một Hồ chí Minh như một siêu nhân có những phẩm chất siêu thực như một vị thần thánh.[2] Siêu nhân này cái gì cũng biết, cái gì cũng thấy, lãnh tụ suy nghĩ thay cho mọi người, cái gì cũng làm được và không bao giờ phạm sai lầm. Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Liên xô Ng. Kroutchev báo cáo trước Đại hội 20 Đảng CS Liên Xô rằng: “Đã đến lúc chúng ta phải xem xét lại toàn bộ sách giáo khoa lịch sử xã hội Liên xô, các sách về lịch sử nội chiến và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thời Stalin với toàn bộ tính khách quan khoa học”.


      Chính vì ý đồ xấu của chính trị, lịch sử đã bị lợi dụng cho mục đích phục vụ cá nhân lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu chính trị nên không phản ánh trung thực sự kiện thực tế nên đã đánh mất niềm tin của quần chúng. Lịch sử sẽ chẳng còn là lịch sử nữa khi người ta viết sử theo nghị quyết, theo khuôn mẫu đúc sẵn một chiều như giáo sư Phan Huy Lê đã phát biểu về công tác sử trước Viện Khoa Học Xã Hội của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chính sử gia Đào Duy Anh đã chua chát thốt lên rằng: “Người ta biết tôi nhờ lịch sử và kết tội tôi cũng vì lịch sử!”.
    


     Sử học thời đại mới bước sang thiên niên kỷ thứ III phải đạt tới mẫu mực soi rọi ánh sáng của sự thật và phê phán con người, chế độ. Phục hồi khách quan tính, bằng cách sắp xếp cấu trúc lại sự kiện một cách hợp lý để khôi phục tính trung thực của lịch sử trong toàn thể dòng vận động lịch sử. Sử học ngày nay đã phục hồi giá trị chân lý của lịch sử. Sử gia chân chính phải tôn trọng sự thật lịch sử với tính khách quan trung thực cho dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Tôn trọng sự thật, phục hồi chân lý khách quan lịch sử của thời quá khứ, phê phán các sự kiện, các biến cố lịch sử một cách khách quan để vượt lên trên biên kiến hẹp hòi của dân tộc, tôn giáo, ý hệ. Sử gia chân chính phải tìm hiểu cặn kẽ các sự kiện lịch sử của quá khứ, sắp xếp lại theo quá trình biện chứng một cách thống quán xuyên suốt toàn bộ dòng vận động lịch sử của mỗi dân tộc nói riêng và cả nhân loại nói chung.         


     Will Durant với công trình vĩ đại “Lịch sử văn minh nhân loại” đã viết: “Viết sử mà có đầu óc hẹp hòi, theo truyền thống cũ bắt đầu bằng sử Hy Lạp, chỉ chép vài hàng về sử Châu Á thì  là thiển cận, thiếu hiểu biết, hậu quả có thể tai hại. Tương lai ở phía Thái Bình Dương và chúng ta phải hướng cặp mắt và trí óc về phía đó…. Trong mấy ngàn năm đất nước Trung Hoa đã có những viên Thái sử ghi chép tất cả những điều xảy ra và nhiều điều khác nữa. Đời Chu cách đây 3000 năm họ đã đặt ra chức sử quan chép lại những Điển, Mô, Huấn, Cáo của vua tôi thời Nghiêu (2357-2256 TDL), vua Thuấn (2255-2206 TDL), nghĩa là chép lại những sự việc quan trọng hàng ngàn năm trước. Nhờ vậy ngày nay chúng ta hiểu về thời cổ đại hơn là cổ sử La Hy của phương Tây”.             Lịch sử một dân tộc là quyển “Quốc Phả” truyền lưu từ đời này sang đời khác nhũng sự kiện, những biến cố thăng trầm suy vong của dân tộc nên sử gia, người chép sử giữ một vai trò quan trọng không những ở hiện tại mà còn cả ở tương lai do hậu thế phán xét. Sử gia phải là những người thông kim bác cổ, có kiến thức của một nhà bác học và văn chương như một nhà văn mà còn luận cổ suy kim như một triết gia nữa. Tuy nhiên, hậu thế nhận định các sử gia không chỉ ở tài năng mà quan trọng hơn là đức tính dám viết sự thật, không khuất phục quyền uy bạo lực để bẻ cong ngòi bút của mình. Ngày nay hậu thế cũng không ngớt lời ca tụng bốn anh em Thái sử nước Tề đời chiến quốc đã không sợ bạo chúa, cường quyền hy sinh tính mạng của mình để viết lên sự thật “Thôi Trữ giết vua”.  Truyện kể vào thời Chiến Quốc vua Tề gian dâm với nàng Thị Khương là vợ của Tể tướng Thôi Trữ, nên bị Thôi Trữ giết. Quan Thái Sử Bá ghi: “Vua Tề gian dâm với Thị Khương nên bị Thôi Trữ giết Vua cướp ngôi”. Thôi Trữ bắt Thái Sử Bá sửa lại nhưng Bá vẫn giữ nguyên nên bị chém đầu. Người em thứ hai Thái Sử Trọng lên thay cũng viết y như anh nên bị Thôi Trữ chém, người em thứ ba là Thái Sử Thúc lên thay anh vẫn giữ nguyên sự thật như hai người anh nên cũng bị Thôi Trữ chém chết. Người em thứ tư Thái Sử Quý lên thay chức vẫn hiên ngang chấp nhận cái chết chứ không bẻ cong ngòi bút, viết sai sự thật. Sự ngay thẳng, khí tiết của bốn anh em Thái Sử nước Tề khiến Thôi Trữ hồi tâm tha chết và để cho Thái Sử Quý viết hết sự thật vì sự thật là sự thật, sớm muộn gì cũng bị phanh phui. Truyện kể bạn của Quý là Nam Sử Thị ở nước láng giềng cũng qua chấp nhận cái chết để nói lên sự thật vì nghĩ thế nào Quý cũng bị giết không còn ai can đảm nói lên sự thật. Điều này chứng tỏ sức mạnh của quần chúng nhân dân “Đại nghĩa thắng hung tàn”, một chế độ độc tài dù bạo ngược đến đâu thì sớm muộn gì cũng sụp đổ tiêu vong.


           Khổng Tử là sử gia đầu tiên ở Trung Hoa, ông đã có công san định Kinh Thư và soạn bộ Xuân Thu là bộ biên niên ghi chép chuyện nước Lỗ từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công (từ năm 722 đến 491 TDL). Trong Kinh Xuân Thu chép lại chính sự triều Chu và các nước chư hầu. Giá trị của kinh Xuân Thu ở chỗ “Ngụ bạo biếm, biệt thiện ác” tức khen chê việc làm của vua chúa để phân biệt đúng sai, thiện ác. Kinh Xuân Thu là loại kinh điển hàm chứa triết lý chính trị “Chính danh định phận”. Vua phải ra vua, tôi phải ra tôi. Mỗi người phải hành xử đúng đắn với danh phận của mình thì danh phận mới đúng đắn. Chính Khổng Tử đã ca ngợi “Sở Ngư là sử gia trung thực ngay thẳng”. Sau Khổng Tử, bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên được Lỗ Tấn ca ngợi là “Tuyệt xướng của sử gia, là Ly tao không vần”.[3] Ban Cố trong bài Tư Mã Thiên truyện tán cũng viết: “Văn của ông thẳng suốt, việc của ông ghi chép chắc chắn, không tô điểm cho đẹp, không giấu cái xấu cho nên có thể coi là thực lục nghĩa là chép đúng sự thực”. Bộ Sử Ký viết dưới thời Hán mà Tư Mã Thiên vẫn phê phán ngay cả Hán Cao Tổ với những thói xấu như ham mê tửu sắc, bài bạc, ghen ghét các công thần. Ngay như Lữ Hậu, vợ Hán Cao Tổ thì ông chép lại hành vi ghen tuông ghê tởm của bà ta đối với một ái phi của Lưu Bang là Thích phu nhân. Khi Cao Tổ chết, Lữ Hậu cho khoét mắt, chặt cụt chân tay rồi nhốt vào cầu tiêu gọi là heo người (nhân trệ) khiến Huệ Đế trông thấy ghê sợ một năm mới hết. 


    Trong lời mở đầu cho tác phẩm “Việt Nam Thông Sử”, nhà thông thái Lê Quí Đôn viết: “Những đức hạnh tốt và những lời nói hay, những mưu sâu và kế lớn của các bậc vua Thánh, tôi hiền đã có công gây dựng cơ đồ, nếu cứ để lu mờ hoặc bị che lấp, khiến cho không thể nào nổi bật lên, thì nhất định là gian ngoan và tham quan ô lại sẽ nhờ đó mà được giấu mặt, đáng trách lắm thay!”. Chính vì vậy Lê Quý Đôn đã nhấn mạnh đến việc tôn trọng sự thật như một tôn chỉ của người chép sử “Việc soạn sử phải lấy việc dùng người làm trọng. Người có văn học nhưng không biết cách chép sử thì không thể cho dự vào sử quán. Người có văn học biết cách chép sử nhưng bụng dạ bất chính cũng không được dự”.


      Vấn đề cốt lõi là lương tâm của người chép sử. Người viết sử phải tôn trọng sự thật, chân lý khách quan của lịch sử, đồng thời phải nắm vững phương pháp sử học, tuân thủ trình tự là trước hết phải biết chọn lựa rồi căn cứ vào nguồn sử liệu trung thực để từ cơ sở đó khôi phục lại sự kiện lịch sử, giải thích và đánh giá những sự kiện lịch sử một cách hết sức khách quan trung thực. Người viết sử phải nghiên cứu mỗi sự kiện lịch sử trong tiến trình xuyên suốt toàn bộ lịch sử một dân tộc. Mỗi sự kiện và toàn bộ dòng vận động lịch sử thường chịu ảnh hưởng của những điều kiện chủ quan và khách quan tác động theo nguyên lý tương tác nhân quả để tạo thành những biến chuyển lịch sử.


           Bên cạnh nền văn minh Trung Hoa là nền văn minh Lưỡng Hà của Phương Đông, Bộ thế giới sử của Abl-Er Rahmanibn Khaldoun người Ả Rập tiêu biểu cho nền văn minh Lưỡng Hà. Tác phẩm đồ sộ nổi tiếng này phải mất 50 năm mới hoàn thành với giá trị độc đáo đến nổi sử gia nổi tiếng Toynbee phải lên tiếng ca ngợi là “Tác phẩm lớn nhất trong loại đó ở bất kỳ thời đại nào và trong bất cứ dân tộc nào”.


              Trên đây chúng ta vừa phân tách sử quan phương Tây và quan niệm sử của phương Đông cũng như nhận xét về nhân cách của sử gia qua các thời đại để có một nhận thức đúng đắn về lịch sự hiện đại. Sử quan thời hiện đại với tinh thần duy lý của triết học phương Tây đã dẫn đến hai quan niệm sử đối kháng: Duy tâm và Duy vật. Sử quan của hai hệ thống ý thức, hai hệ tư tưởng đấu tranh quyết liệt đưa nhân loại vào thế đối đầu một thời tưởng như không lối thoát có thể tiêu diệt cả nhân loại. Trong quá khứ, nhân loại cũng đã khốn khổ chứng kiến cuộc chiến tranh tôn giáo kéo dài hàng thế kỷ, giết chết biết bao sinh mạng con người một cách phi lý. Thế rồi, nhân loại cũng đã vượt thoát thời kỳ tối tăm xuẩn động đó để tìm ra một triết lý làm phong phú cho đời sống tâm linh sâu thẳm của con người. Đến nay, cái gọi là thời chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường đứng đầu hai hệ thống ý thức xem như đã chấm dứt với sự sụp đổ của Liên Sô. Từ một thế giới đối đầu, lưỡng cực về chính trị và quân sự chuyển sang một thế giới đa cực, đa nguyên về tư tưởng và chính trị, thể hiện tính tất yếu tự do tư tưởng của con người trước thiên niên kỷ thứ III. Thế nhưng, nhân loại lại quay trở lại quan niệm cực đoan về chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo, người ta dễ bị kích động để sẵn sàng hi sinh mạng sống để vừa là “Anh hùng dân tộc” lại vừa là “Thánh Tử Đạo”. Quan niệm cực đoan này dẫn đến những cuộc chiến tranh của chủ nghĩa dân tộc cực đoan và tôn giáo cuồng tín, cuộc chiến tranh để xâm lược bành trướng đang đe dọa sự sống còn của cả nhân loại.                   


     Sử quan phương Đông mà một số học giả phương Tây thường gọi là của Trung Hoa được đánh giá cao. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ và nhất là sống trong cái gọi là “nền thái bình Trung Hoa” thì chúng ta mới thấy được thực chất “Đại Hán bành trướng” của đế chế phong kiến Trung Quốc. Thật vậy, bắt đầu từ Khổng Tử, người được xem là Triết gia và sử gia đầu tiên của Trung Quốc cũng để lộ ra cái Gene Đại Hán khi đề cao tôn chỉ “Tôn Chu nhượng Di” và “Dĩ Hạ biến Di” để “Đại nhất thống thiên hạ” nghĩa là đánh dẹp Di địch, tôn phù nhà Chu, lấy cái văn minh Hoa Hạ để cải biến man di thành Hán để Hán tộc thống trị các nước. Đó chính là chủ trương Hán hoá, một hình thái thực dân nô dịch văn hoá các dân tộc ở Trung Nguyên để đồng hoá họ thành người Hán ngay từ thời cổ đại. Điều này đã được chính các bậc thức giả Trung Quốc nhìn nhận trong bộ Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc[4] như sau “Nguyên uỷ của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán khởi từ thời cổ đại mà đến ngày nay, các sử gia học giả Trung Quốc vẫn coi bộ Xuân Thu của Khổng Tử như kinh điển truyền thống của họ. Tôn chỉ mà Khổng Tử khi viết bộ Xuân Thu là Tôn Chu nhượng Di, Đó là tư tưởng đại nhất thống bằng mọi cách chinh phục các dân tộc khác qui về một mối, bên trong là dân tộc Hoa Hạ (tức Đại Hán) bên ngoài là Di địch”.[5] Điều này cũng dễ hiểu vì Khổng Tử là người tôn thờ Thang Chu nên đưa ra chủ  trương “Phò Chu, Dẹp Di Địch (Tôn Chu nhượng Di)” là những triều đại đã xâm chiếm toàn bộ đất đai của cộng đồng Bách Việt ở trung nguyên Trung Quốc và đẩy lùi Việt tộc xuống phương Nam.        


     Sử sách Trung Quốc ngày nay vẫn tự hào về dòng dõi gọi là Hán tộc của họ. Tầm nguyên từ Hán có nghĩa là to lớn, chữ này ghép theo bộ Thủy ý nói những người xới đất trồng tỉa sinh sống ở ven sông nhưng sở dĩ sử sách TQ cũng như người Tầu tự hào nhận họ là người Hán, Hán tộc vì triều đại Hán là triều đại rực rỡ nhất của họ.[6] Lịch sử Trung Quốc chỉ khởi đầu từ triều Thương nhưng Thương chỉ là một tộc người du mục ở Tây Bắc sau tiến công xuống lưu vực Hoàng Hà diệt nhà Hạ, chiếm cứ địa bàn gồm phía Đông tỉnh Sơn Tây, phía Tây tỉnh Sơn Đông, phía Nam tỉnh Hà Bắc và phía Bắc tỉnh Hà Nam.7[7] Cổ sử chép thời đó có tới cả ngàn chư hầu nhưng trên thực tế là những bộ lạc gần kinh đô mới chịu sự thống trị của triều Thương mà thôi. Đến đời Tần, sau khi đánh thắng các nước trở thành bá chủ Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng tổ chức guồng máy thống trị, thống nhất văn tự, diệt Nho đốt sách, thống nhất đơn vị đo lường, xây Vạn Lý Trường Thành chống Hung nô phương Bắc, sai Đồ Thư đem 10 vạn quân đánh Bách Việt ở phương Nam.[8]  


     Năm 221 TDI, Tần mới hoàn toàn làm chủ Trung nguyên. Chỉ trong thời gian ngắn chưa tới 15 năm mà Tần Thủy Hoàng đã thành lập một đế quốc lớn vào bậc nhất thế giới nên các sử gia phương Tây ca tụng là vĩ nhân kim cổ!. Người phương Tây biết đến Tần nhờ các thương nhân chở lụa, hương liệu nên gọi Trung Quốc là Tần (Cin) phiên âm là CINA bắt đầu từ đó.[9] Sau Tần đến Hán là triều đại mà lãnh thổ của đế chế Đại Hán rộng lớn nhất vì thế ngay cả Tư Mã Thiên, người được coi là sử gia nổi tiếng đã dám phê phán Lưu Bang tức Hán Cao Tổ và vợ là Lữ Hậu nhưng vì muốn nhận Hoàng Đế và triều Hạ là lịch sử mở đầu của Trung Quốc nên đã bao biện giải thích là vua Thuấn bị gọi là Đông Di vì thói quen chứ thực ra vua Thuấn là người Hán. Lý luận này không thể chấp nhận được vì không thể do thói quen mà gọi vua của mình là người nước khác được nhất là Đông Di dưới con mắt Đại Hán, lại là man di thì chắc chắn phải tru di tam tộc. Tư Mã Thiên mới chỉ can ngăn vua hỏi tội Lý Lăng mà đã bị cung hình (cắt bỏ bộ phận sinh dục) vì tội xem thường vua chứ đừng nói tới tội nhạo báng dám gọi vua là man di mọi rợ. Chính vì tư tưởng chủ quan “Đại Nhất Thống” của Đại Hán nên Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng không những của Trung Quốc  mà còn của cả nhân loại nữa cũng đã đánh mất tính ngay thẳng trung trực của một sử gia.      


    Trong khi hầu hết các dân tộc trên thế giới đều có một thời gian dài thanh bình nên hình thành những tác phẩm văn học lịch sử bất hủ, xây dựng được những công trình kiến trúc nguy nga độc đáo, thì lịch sử của dân tộc Việt là lịch sử của cuộc trường kỳ kháng chiến chống ngoại xâm ngay từ những ngày đầu dựng nước. Nếu mỗi dân tộc đều có một định mệnh riêng thì không có một dân tộc nào trên thế giới lại có nhiều thăng trầm dâu bể như dân tộc Việt Nam. Lịch sử Việt tộc đầy rẫy những thương đau mất mát, chia lìa đứt đoạn suốt cả ngàn năm mất nước chịu sự nô lệ của giặc Tàu, một trăm năm đô hộ của giặc Tây và mấy chục năm chiến tranh khốc liệt đối đầu giữa hai hệ thống một bên là sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, một bên là thế giới tự do tưởng rằng dân tộc tiêu vong, nhưng rồi Việt tộc cũng vượt qua tất cả để tồn tại mãi tới ngày nay.        


     Ngay từ thời lập quốc, đế chế phong kiến “Đại Hán” phương Bắc đã ra sức tiêu diệt Việt tộc, triệt tiêu văn hoá, xoá bỏ văn tự đến nỗi ngày nay chúng ta không còn dấu vết nào để tìm về cội nguồn dân tộc. Bộ Đại Việt Sử Lược của một tác giả khuyết danh vào thế kỷ XIV (khoảng từ 1377-1388) được coi là bộ sử xưa nhất của nước ta thì bản duy nhất còn sót lại trong Tứ Khố toàn thư đã bị Tiền Hy Tộ sử quan triều Thanh sửa chữa, hiệu đính cho phù hợp với chủ trương Đại Hán cố hữu của họ. Tiền Hy Tộ đã đổi tên bộ sách từ Đại Việt Sử Lược thành Việt Sử Lược, cũng như nội dung đã bị xuyên tạc bóp méo một cách trắng trợn, lộ liễu. Niên đại thành lập quốc gia Văn Lang được kéo lùi lại để tạo một nghi vấn về sự đứt đoạn không liên tục từ nhà  nước Xích Qui sơ khai đến quốc gia Văn Lang hòng xoá nhòa dấu vết cội nguồn Việt tộc.[10]


       Mãi đến đời Trần Thánh Tôn (1258-1278) Lê Văn Hưu mới biên soạn bộ Đại Sử Việt gồm 30 quyển chép từ đời Triệu Võ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Vua Trần cũng sai văn thần chép công trạng của các tướng sĩ đã góp công tạo nên kỳ tích oai hùng hiển hách ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông trong quyển “Trung Hưng thực lục”. Sau đó, Hồ Tông Thốc cuối đời Trần soạn bộ Việt Sử Thế Chí và Việt Sử Cương Mục. Tất cả những bộ sách sử này đã bị quân Mông tịch thu đem về Kim Lăng tiêu hủy. Nhận định về bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên tục biên, sử gia Ngô Sỹ Liên nhận định “Lê văn Hưu là tay bút lớn đời Trần. Phu Tiên là bậc lão thành Triều Thánh đều vâng chiếu chép về sử của nước mình”. Về “Việt Sử Cương Mục” của Hồ Tông Thốc theo Ngô Sĩ Liên thì “Chép việc thận trọng mà có phép, bình việc thiết đáng mà không thừa, có lẽ cũng đã khá. Thế nhưng, sau cơn binh lửa sách ấy thất truyền”. Ngoài ra, nhiều tác phẩm sử học giá trị được biên soạn như Đại Việt Thông Giám Tổng Luận cuả Lê Tung, Việt Sử Toàn Thư của Phạm Công Trứ, Quốc Sử Thực Lục của Nguyễn Quý Đức, Đại Việt Thông Sử của học giả Lê Quý Đôn. Thời  Nguyễn, bộ  Sử Học Bị Khảo của Đặng Xuân Bảng, bộ Khâm Định Việt Sử Cương Mục Thông Giám Thực Lục, Đại Nam Lịêt Truyện của Quốc sử quán và bộ Lịch Triều Hiến Chương của Phan Huy Chú.


     Thế nhưng các sử gia ta hầu hết chép từ thư tịch cổ Trung Quốc trong đó các bộ Sử Ký và Tiền Hán Thư, Hậu Hán Thư được coi là quan niệm sử chính thống của Hán tộc. Những bộ sử này hiển nhiên là thiếu khách quan trung thực, chưa nói đến việc họ xuyên tạc bóp méo sự kiện lịch sử cho phù hợp với ý đồ bành trướng “Đại Hán” của họ. Bên cạnh Sử ký và Tiền Hán Thư còn có một số sách sử khác không liệt vào quan điểm chính thống của Hán tộc nhưng lại cung cấp cho chúng ta một số dữ kiện lịch sử có giá trị. Đó là các bộ Giao Châu Ngoại Vực Ký,[11] Quảng Châu Ký,[12] Nam Vịêt Chí,[13] Nhật Nam Truyện, Thuỷ Kinh Chú,[14] Lộ Sử tức sử Lạc Việt của La Tất đời Tống … Với các nguồn sử sách này, lần đầu lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta được xuất hiện cũng như một số sử liệu về thời Hùng Vương trong khi Sử ký và Tiền Hán thư không đề cập tới một cách chủ ý.


     Chính vì thế khi tìm hiểu về nguồn cội dân tộc, chúng ta đứng trước một rừng sử liệu mập mờ, bí hiểm và đôi khi trái ngược nhau. Đó chính là ý đồ thâm độc của Hán tộc nhằm xoá bỏ vết tích nguồn cội dân tộc sau khi đã diệt nho đốt sách, triệt tiêu văn tự cổ của dân tộc ta. Tính trung thực của sách sử Trung Quốc cũng đã được đặt ra bởi chính các sử gia Trung Quốc thì làm sao chúng ta có thể tin được một Sử ký, một Tiền Hán thư và Hậu Hán Thư. Thật vậy, Mạnh Tử đọc Thiên Vũ Thành trong Chu thư là bộ Sử chính thống của triều Chu chỉ thấy vài câu là đáng tin cậy, còn toàn là hư cấu nguỵ tạo. Vì vậy, Mạnh Tử đã cảnh giác môn sinh đừng quá tin vào kinh điển. Mạnh Tử nói “Tận Tín thư bất như vô thư” vì nếu nhắm mắt tin vào sách vở thì chẳng thà không có sách còn hơn. Cách đây gần 1600 năm Bùi Tùng Chi (372-451) khi chú thích Ngụy Chí đã viết: “Thần, Tùng Chi cho rằng sử ghi việc phần lớn đã bị nhuận sắc, nên điều thật chép trước có chỗ chẳng thực. Các tác giả sau sinh ý cải sửa, nên thất thiệt càng xa”. Gần đây hơn là Đổng Phân khi viết bạt cho Thế Thuyết Tân ngữ cũng nhận xét “Người sử thần viết sách, đem ý đồ lén đổi, phần lớn chẳng phải lời xưa!”. 


    Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề tìm về nguồn cội dân tộc, các sĩ phu Việt Nam yêu nước như Trần Thế Pháp, Lý Tế Xuyên đã ghi chép biên soạn lại những truyền khẩu dân gian về truyền kỳ lịch sử nên lần đầu tiên những truyền thuyết huyền thoại dưới dạng cổ tích được sưu tập lại chép thành văn bản. Năm 1329, Lý Tế Xuyên viết Việt Điện U Linh dựa trên sách sử xưa mà nay không còn nữa như Giao Chỉ Ký, Bác Cực Truyện, Giao Châu Ký của Triệu Công và Tăng Cổn thế kỷ IX, là người Trung Quốc đã từng sang Việt Nam biên soạn và Ngoại Sử Ký của Đỗ Thiện đời Lý (thế kỷ XII) soạn dựa trên những mẩu truyện linh thiêng của dân gian ở nước ta từ thời U-Việt ở Cối Kê tỉnh Triết Giang thuộc Trung Nguyên.


             Trần Thế Pháp hiệu là Thức Chi mở đầu: “Lĩnh Nam Trích Quái Liệt truyện” đã viết “Lịch sử Việt Nam kể từ thời xa xưa đến giờ đã bị thất truyền quá nhiều nên sưu tập những truyện nào còn sót lại để truyền miệng trong dân gian nhằm bảo lưu nguồn gốc giống dòng, vì tuy là truyện dân gian truyền khẩu nhưng phải chăng chính là sử trong truyện xưa tích cũ vậy”. Mãi đến đời nhà Lê, Ngô Sĩ Liên soạn bộ sử “Đại Việt Sử Ký toàn thư” mới chính thức đưa truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc vào chính sử. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã dành riêng một kỷ đặt tên là KỶ HỒNG BÀNG. Bắt đầu từ thời Kinh Dương Vương lên ngôi năm 2879 TDL truyền thừa 18 đời Hùng Vương đến Hùng Duệ Vương là vị vua cuối cùng coi như chấm dứt thời đại Hùng Vương vào năm 258 TDL. Tính ra tổng cộng 18 đời Hùng Vương kéo dài 2622 năm. Tuy lần đầu tiên Ngô Sĩ Liên đưa Kỷ Hồng Bàng vào chính sử, phần ngoại kỷ nhưng Ngô Sĩ Liên cũng xác định là “Những việc chép trong ngoại kỷ đều gốc ở dã sử, việc nào quái lạ quá thì bớt không chép”. Chính vì thế, một số sử gia cho rằng truyền thuyết trăm trứng Rồng Tiên và thậm chí cả thời đại Hùng Vương chỉ là thần thoại hoang đường huyền hoặc, một cái nhìn sai lầm thiển cận hết sức đáng tiếc.


    Trong suốt dòng sử Việt, tất cả các vua chúa Việt Nam đều không những tin tưởng mà còn tự hào với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên của Việt Tộc, duy chỉ có Tự Đức tự cho mình là có học, có cái nhìn khác người nên Tự Đức đã phê trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục như sau: “Kinh Thi nói. Đấy trăm con đó ấy là để ca ngợi chuyện có nhiều con trai. Khảo e sự thật đó thì cũng chưa đến như vậy. Huống nữa là truyện trăm trứng sao? Nếu quả nhiên là sinh ra từ trăm trứng, thì lấy gì mà phân biệt với cầm thú để còn có thể làm người ư? Tuy một trứng chim đen, đạp lấy dấu chân người khổng lồ, những chuyện ấy cũng chưa quái đản như chuyện đây. Nó cùng với chuyện thân rắn đầu người, thân người đầu trâu cũng một loại hoang đường không thể khảo sát được!”. Các sử thần thời Tự Đức cũng viết về thời đại Hùng Vương trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục như sau:“Họ Hồng Bàng làm vua cả thảy là hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm  (2879-258 TCN) không biết lấy bằng cứ ở đâu?”. Sử gia Trần Trọng Kim cũng nhận định “Đấy cũng là điều nói phỏng chứ không có lấy gì làm đích xác được …”. Đây cũng là điều dễ hiểu vì phần lớn trong số họ chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán Nho. Tuy nhiên gần đây, một số người chịu ảnh hưởng của Tây học nên quá lệ thuộc vào sách sử, học vị cùng với đầu óc duy lý đã dẫn tới những nhận định phiến diện sai lầm như trường hợp nhà sử học Nguyễn Phương trong quyển “Việt Nam Thời Khai sinh”. Họ lần mò trong những thư tịch cổ mà họ gọi là chính sử Trung quốc thì làm sao có thể tìm thấy những sử liệu minh văn một khi kẻ thù “Đại Hán” quỉ quyệt đã xuyên tạc, bóp méo thậm chí sửa đổi sự thật lịch sử cho phù hợp với ý đồ thâm độc của chúng? Các nhà sử học Mác Xít đã không có một cái nhìn tổng thể xuyên suốt toàn bộ tiến trình lịch sử của dân tộc, lại bị ràng buộc bởi nghị quyết của đảng CSVN đã kéo lùi niên đại thành lập quốc gia Văn Lang cho phù hợp với sử quan Đại Hán, với quan hệ hữu nghị hợp tác Trung-Việt.


     Chính nguồn sử liệu mù mờ, huyền hoặc đôi khi mâu thuẫn của các sử gia Đại Hán cùng với tinh thần vọng ngoại, nô dịch của một số hủ nho cũng như một số sử gia mất gốc ngày nay nhân danh khoa học lịch sử hiên đại để tuyên truyền cho sự nô dịch văn hóa Mác Xít ngoại lai là khai hoá giải phóng rồi nghi ngờ phủ nhận truyền thuyết khởi nguyên dân tộc khiến cho lớp mây mù huyền thoại ngày càng dầy đặc phủ kín hiện thực sống động của lịch sử Việt tộc.


             Tìm về nguồn cội dân tộc chúng ta không thể căn cứ hoàn toàn vào cái gọi là “Chính sử Trung Quốc” mà trái lại, phải tìm kiếm sử liệu ở những sách vở mà Tàu gọi là “Ngoại thư”. Thực tế đây là những sử liệu mang tính trung thực nhất do những người tuy gọi là Tàu nhưng gốc Việt cổ vẫn còn tấm lòng đối với dòng giống Việt cổ nên đã thu thập sử liệu để truyền lưu cho đời sau về nguồn cội dân tộc. Thật vậy, nếu không có “An Nam Chí” của Cao Hùng Trưng thì làm sao chúng ta biết được đất Giao Chỉ khi chưa có quận huyện, có ruộng Lạc do nước triều lên xuống. Khẩn ruộng ấy là những Lạc dân, cai trị dân ấy là Lạc Vương. Giúp việc Lạc vương là Lạc tướng, đều có ấn đồng thao xanh, gọi là nước Văn Lang, không có “Lộ Sử” làm sao chúng ta biết rõ sử của Lạc Việt. Cũng như không có một “Nam Việt Chí” của Thẩm Hoài Viễn thì chúng ta cũng không biết gì về thời đại Hùng Vương trong khi chính sử Hán tộc như Sử Ký, Tiền Hán Thư, Hậu Hán Thư đều không đề cập đến một cách có chủ đích. Đó là chủ trương trước sau như một của “Đại Hán bành trướng” suốt dòng lịch sử khởi từ triều Thương cho tới mãi ngày nay. Vì thế, trong những lần xâm lăng nước ta, Hán triều đều ra lệnh cho đội quân xâm lược triệt tiêu văn tự, đốt bỏ sách vở, đập phá các văn bia đình chùa, đền đài miếu mạo. Chúng ra lệnh thiêu hủy tại chỗ không cần mang về vì sợ bị lấy lại hoặc thất lạc. Triều đình Trung Quốc ra lệnh cấm quan chức các địa hạt nơi có sứ đoàn ta đi qua không được nhận quà sợ bị mua chuộc, mặt khác họ lại cấm các nhân viên sứ đoàn không được phép mua khí giới hoặc thuốc súng và nhất là sách sử. Sự thật lịch sử không chối cãi được này đã chứng tỏ: Hán tộc luôn chủ trương một mặt triệt tiêu văn tự, đốt bỏ sách sử của ta, mặt khác chúng lại bưng bít các nguồn sử liệu để để cội nguồn dân tộc chìm vào quên lãng.


       Vì vậy, bên cạnh các nguồn thư tịch cổ chúng ta phải tìm hiểu về huyền sử dân tộc qua các huyền thoại, truyền thuyết dân gian. Nhờ vậy, chúng ta mới hiểu được người xưa đã gửi gấm những ý nghĩa trung thực về một thời kỳ lịch sử được che giấu dưới lớp vỏ hư cấu huyền hoặc của truyền thuyết cho chúng ta. Đó chính là thần trí Việt, bức thông điệp ngàn xưa của tiền nhân đòi hỏi chúng ta phải giải mã vì “Truyền thuyết thần thoại hàm chứa những ý nghĩa lịch sử trung thực nhất”. Huyền thoại Rồng Tiên của Việt tộc với những nhân vật thần thoại từ Phục Hi, Nữ Oa, Thần Nông rồi Bố Rồng, Mẹ Tiên là những hình tượng nguyên sơ mang tính tâm linh chính là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của tiền nhân Việt tạo dựng chờ thế hệ chúng ta diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý luận để làm sáng tỏ nguồn cội dân tộc Việt.                            


      Ngày nay, Sử học tuy vẫn dạy ở Văn khoa nhưng được xem là khoa học nhân văn nên không thể thuần tuý dựa trên các nguồn sử liệu mà phải được bổ sung bởi khoa Dân tộc học và Ngôn ngữ học. Lịch sử nếu chỉ dựa trên các nguồn sử liệu minh văn chưa đủ, phải được kiểm chứng bởi khảo cổ học với các di chỉ là bằng cớ sống động sẽ phục hồi sự thật lịch sử cho dù nó được ngụy tạo, bị xuyên tạc bóp méo hàng ngàn năm. Khoa Khảo Tiền Sử đo chỉ số sọ và dung lượng sọ, tính cách sọ sẽ xác định chủng tộc trên cơ sở khoa học hết sức chính xác. Khoa Khảo tiền sử sẽ đối chiếu chỉ số sọ các chủng tộc, xác định địa bàn cư trú, con đường thiên di của mỗi tộc người dựa trên tầng lớp của sọ được tìm thấy theo thứ tự thời gian. Cuối cùng, kết quả của Chủng tộc học, Khảo cổ học và Khảo Tiền sử còn được bổ sung bởi phương pháp đối chiếu ngôn ngữ của các dân tộc vùng Đông Nam Á cùng với kết quả phân tích hệ thống cấu trúc Gène di truyền của phân tử DNA, tất cả sẽ cho chúng ta một nhận định đúng đắn về các dân tộc đồng văn, đồng chủng này. 


     TÌM VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT chúng ta cũng không thể không xét qua lịch sử Trung Nguyên thời cổ đại, địa bàn định cư đầu tiên của Việt tộc nhưng cuối cùng, Hán tộc đã xâm lăng và làm chủ Trung Nguyên. Chúng ta cũng sẽ hiểu rõ hơn về ngọn nguồn của cái gọi là “nền văn minh Trung Hoa” cũng như công cuộc đấu tranh kiên cường đề kháng của Việt tộc trước kẻ thù phương Bắc. Tất cả sẽ góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc của Việt tộc. 


      Lịch sử Việt là lịch sử của trường kỳ kháng chiến, chiến đấu và chiến thắng để tồn tại mãi tới ngày nay. Dân tộc Việt đã đánh thắng biết bao kẻ thù hung hãn quỷ quyệt bất cứ từ đâu đến, dù chúng núp dưới bất kỳ chiêu bài hoa mỹ nào. Lịch sử Việt cũng chứng minh rằng tất cả những gì xa lạ với dân tộc đều phải khuất phục trước sức sống Việt Nam, trước truyền thống anh hùng của một dân tộc có lịch sử lâu đời với hàng ngàn văn hiến. Vị trí địa lý của đất nước đặt dân tộc Việt vào thế sống còn, luôn luôn phải đối đầu với kẻ thù truyền kiếp đất rộng người đông. Với tư tưởng chủ đạo độc tôn Đại Hán, họ tự cho mình là trung tâm của thế giới nên đặt tên là Trung Quốc, tự cho là dân tộc văn minh Hoa Hạ còn tất cả các nước đều là man di mọi rợ nên chủ trương của Hán tộc là “Đại nhất thống thiên hạ” và “Dĩ Hạ biến Di” nghĩa là lấy cái gọi là văn minh Hoa Hạ để cải biến Di địch. Thế nên, lịch sử Trung Quốc là lịch sử của những cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng thôn tính và đồng hoá các dân tộc khác. Ngày nay các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc đều thống nhất quan điểm cho rằng Hán tộc không phải là tộc người có mặt ở Trung Nguyên đầu tiên nhưng là tộc người xâm chiếm  Trung Nguyên cho đến ngày nay. 


            Tương truyền thuở khai thiên lập địa có ông Bàn Cổ, về sau là thời Tam Hoàng, Ngũ Đế. Thời Tam Hoàng còn ăn lông ở lỗ, họ Hữu Sào mới chỉ cho dân cách làm nhà sàn để che mưa nắng.[15] Toại Nhân phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn, Phục Hi dạy dân săn bắn, đánh lưới cá để làm kế sinh nhai. Đế Thần Nông dạy dân làm ruộng lập chợ bán buôn, tìm thuốc trị bệnh cho dân. Đế Viêm Thần Nông, thủ lĩnh của liên minh các bộ lạc lãnh đạo cuộc thiên cư đầu tiên cách đây hơn sáu ngàn năm xuống Trung Nguyên. Khoảng một ngàn năm sau, cũng một nhánh Thần Nông định cư ở Hoa Bắc mà truyền thuyết kể là Đế Minh cháu ba đời của Đế Thần Nông truyền ngôi cho Đế Nghi năm 2879 TDL. Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai, Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng thì xảy ra chiến tranh giành quyền lãnh đạo giữa các thủ lĩnh. Khi dòng Thần Nông phương Bắc tràn xuống Trung Nguyên, Li Vưu (Xuy Vưu) là chúa tể của Cửu Lê đem quân đánh Đế Du Võng.[16] Thủ lĩnh bộ lạc Hữu Hùng thị (họ Hữu Hùng) lãnh đạo các bộ lạc khác đem quân đánh và giết chết Li Vưu ở Trác Lộc, đuổi Du Võng về Lạc Ấp và chết ở đó. Các bộ lạc tôn thủ lĩnh Hữu Hùng thị lên ngôi cộng chủ và gọi là Hoàng Đế.[17] 


    Sử Trung Quốc chép rằng Hoàng Đế bình định các nơi, mở mang bờ cõi, đặt ra y phục, xây dựng nhà cửa, cung thất, chế đồ dùng bằng đồng để thay đồ đá, xe cộ, ghe thuyền. Nguyên phi của Đế Hoàng là Lũy Tổ phát minh ra nghề nuôi tằm và chế ra thứ xe để kéo kén ra tơ, nhà thiên văn Duy Thành phát minh ra máy Cái Thiên để quan sát hiện tượng. Thương Hiệt chế ra văn tự tượng hình để thay cho lối chữ thắt nút thời Viêm Đế. Hoàng Đế truyền ngôi cho con là Thiếu Hạo rồi Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí. Sách xưa gọi Hoàng Đế,Thiếu Hạo, Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí là Ngũ đế còn Tam Hoàng là Toại Nhân, Phục Hi, Thần Nông.[18] Cổ sử chép “Đế Chí vi nhược, chư hầu tôn ông Nghiêu, con Đế Cốc lên thay”.[19] Đế Nghiêu lên ngôi lấy quốc hiệu là Đường, đóng đô ở Bình Dương thuộc đạo Hà Đông tỉnh Sơn Tây. Đế Nghiêu họ Đào Đường chăm lo việc chính trị, cai trị nhân đức. Sai ông Hi và Hoà làm lịch để dân biết thời vụ mà làm nông. Lịch thời đó gồm có 360 ngày, có tháng nhuần. Trăm họ cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống, an hưởng thái bình. Đế Nghiêu được Ông Thuấn giúp việc tuần thú và giao tiếp chư hầu. Con vua Nghiêu là Đan Châu kém cỏi bất tài nên Đế Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn là người hiếu thảo và có tài. Vì thế mà Đào Đường thị Đế Nghiêu được hậu thế ca tụng là tài đức song toàn, truyền ngôi cho người hiền mà không truyền cho con.[20] 


    Tương truyền họ Đào Đường làm vua từ 2356 đến 2255TDL thì truyền ngôi cho ông Thuấn là người có đức có tài. Thuấn lên ngôi đóng đô ở Bồ Bản thuộc đạo Hà Đông tỉnh Sơn Tây, đổi quốc hiệu là NGU. Đế Thuấn sai ông Vũ đi trị lụt, đặt ra lệ tuần thú, lập nhà học Thượng tường và Hạ tường. Đế Thuấn theo Mạnh Tử là người Đông Di tức Lạc bộ Trãi (Trĩ) của Việt tộc. Đế Thuấn được nhiều hiền tài ra giúp như ông Tiết, Cao Dao, ông Ích, ông Tắc. Đế Thuấn ở ngôi được 18 năm con là Thương Quân không theo nổi nghiệp cha nên Đế Thuấn truyền ngôi cho người hiền là ông Vũ. Vua Vũ là cháu huyền tôn vua Hoàng Đế, con của ông Cổn từng làm quan triều Nghiêu Thuấn.[21] Đời vua Nghiêu có lụt lớn, vua sai ông Cổn trị thủy. Cổn cho đắp đê nhưng nước lại dâng lên cao. Thuấn lên ngôi cử ông Vũ thay cha đi trị thủy, Vũ dùng cách sơ đạo, khai thông sông ngòi cho nước thuận dòng chảy ra biển, nước rút suốt 13 năm trời mới hết. Khi lên ngôi, Vũ dời đô về An Ấp thuộc đạo Hà Đông tỉnh Sơn Tây và đổi tên nước là Hạ. Vua Vũ chia nước làm chín châu là châu Kỳ, châu Duyên, châu Dự, châu Thanh, châu Từ, châu Dương, châu Kinh, châu Lương và châu Ung rồi định lệ cống, thuế cho các châu. Vua thường hội các chư hầu ở núi Đồ Sơn. Vua Vũ đặt ra Cửu Trù để định rõ các mối luân thường và chính trị. Lúc dân bị nạn lụt, vua Vũ muốn truyền ngôi cho người hiền là ông Ích nhưng thái tử Khải là người hiền nên khi vua băng, các chư hầu tôn thái tử lên thay tức là Đế Khải.[22]  Ngôi vua từ chế độ “truyền hiền bất truyền tử” thời thịnh trị Đường Ngu chuyển sang chế độ quân chủ thế tập kể từ đó. Đến đời vua Kiệt say mê Muội Hỷ, đắm chìm trong tửu sắc không ngó ngàng gì đến việc triều chính mà chỉ lo xây cung điện, giết gián thần Long Bàn nên bị vua nước Thương là Thành Thang hợp với chư hầu đem quân vào đánh tiêu diệt nhà Hạ. Tính ra nhà Hạ gồm tất cả 18 đời vua trị vì hơn 432 năm.  


     Theo Từ Hải và các bộ sử cũ thì triều Thương bắt đầu từ khoảng 1766 TDL và chấm dứt năm 1122 TDL. Kinh đô đầu tiên ở đất Bạc, sau đến đời Bàn Canh phải dời về đồi Ân nên đổi tên Thương là Ân. Chính thời kỳ này giặc Ân vượt Hoàng Hà xâm chiếm Xích Quy cổ sơ của ta ở Trung Nguyên nhưng thất bại còn ghi dấu trong truyền thuyết Phù Đổng Thiên vương.[23] Theo cổ sử TQ thì đời Thương còn khoảng 3000 chư hầu, cương vực là cả một khu vực rộng lớn ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang.[24] Trên thực tế, khu vực vương triều Thương trực tiếp cai trị chỉ là mảnh đất hẹp ở gần kinh đô bằng khoảng hai tỉnh ngày nay gồm phía Nam tỉnh Hà Bắc, phía Đông tỉnh Hà Nam, phía Bắc tỉnh Sơn Tây và phía Tây tỉnh Sơn Đông. Tên Trung Quốc có từ thời Thương vì theo quan niệm của Hán tộc thì Thương là quốc thổ nằm giữa các vùng đất ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc nên gọi là Trung Quốc.[25] Các sách cổ như Thượng Thư, Kinh Thi do Khổng Tử san định đều gọi vương quốc Thương là Trung Quốc. Trong Kinh Thi có câu: “Huệ thử Trung Quốc, dĩ tuy tứ phương” nghĩa là lấy ân huệ Trung Quốc để yên định bốn phương. Cuối đời Ân, Trụ là người dũng mãnh có tài nhưng say mê Đắt Kỷ, dâm dật, hoang phí đặt ra nhiều loại thuế mới, áp dụng hình phạt thảm khốc, bỏ tù Văn Vương. Sau Văn Vương chết, con là Tây Bá Phát hội chư hầu 800 nước đánh Trụ. Trụ đốt mình mà chết. Triều Thương gồm 34 đời vua kéo dài 629 năm.         


      Chu Võ Vương lên ngôi, đóng đô ở đất Cảo tỉnh Thiểm Tây phong cho họ hàng và công thần làm vua 15 nước chư hầu, đặt ra chế độ Tông pháp. Vương triều Tây Chu cũng đặt tên nước là Trung Quốc. Cuối đời Chu, Chu Lệ Vương dùng kẻ tiểu nhân, làm việc bạo ngược nhân dân nổi lên đánh đuổi. Lệ Vương chạy vào đất Phệ, con là Thái tử Tịnh còn nhỏ, hai ông Châu và Triều làm tướng cùng chung coi việc nước nên sử gọi là chính thể Cộng hòa năm 841 TDL. 


     Theo cổ sử, đầu triều Chu có khoảng 1000 chư hầu nhưng đến thời Xuân Thu cuối đời Chu còn hơn 100 nước, trong đó chỉ có 12 nước được ghi trong sử sách là: Tề ở Sơn Đông, Sở ở Hồ Bắc, Tấn ở Sơn Tây, Tần ở Thiểm Tây, Lỗ ở Khúc Phụ Sơn Đông, Vệ ở Hà Nam, Tào ở Sơn Đông, Trần ở Hoài Dương Hà Nam và Sái ở Tân Sái Hà Nam. Trong 12 nước gọi là chư hầu thì có Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống là lớn mạnh hơn. Về sau có nước Việt ở huyện Thiệu Dương tỉnh Hà Nam và Ngô ở huyện Ngô tỉnh Giang Tô nổi lên cùng các chư hầu tranh giành ngôi bá chủ Trung Nguyên, dưới danh nghĩa “Tôn Chu nhượng Di” (phù Chu dẹp Di địch). 


THỜI XUÂN THU (722-479 TDL) 


      Thời kỳ này có 5 chư hầu kế tiếp nhau làm minh chủ nên thời kỳ này còn được gọi là thời “Ngũ Bá”. Đó là Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Tương Công nước Tống, Trang Công nước Sở và Mục Công nước Tần. Suốt thời kỳ này, Sở không chịu triều cống Chu, đánh Tề Tấn và bắt được Tống Tương Công đang hội họp chư hầu ở Lộc Thượng.[26] Sở Trang Vương diệt nước Dung, đánh nước Tống, tiến công rợ Lục Hồn và tiến quân vào Lạc Ấp, Kinh đô của triều Chu rồi phá quân Tấn ở đất Bắc xưng vương làm bá chủ chư hầu. Đến đời Sở Bình Vương, nghe lời dèm pha giết Ngũ Xa, con Xa là Ngũ Tử Tư qua cầu cứu nước Ngô đem quân về đánh, Sở Vương bỏ chạy. Mấy năm cuối đời Xuân Thu, nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn, hậu duệ vua Thiếu Khang nhà Hạ đánh thắng Hạp Lư. Sau bị Ngô Phù Sai con của Hạp Lư đánh thua ở Cối Kê phải xin cầu hoà. Suốt 10 năm trời khổ nhục, cuối cùng diệt được  nước  Ngô, thanh thế vang dội khắp nơi trở thành bá chủ Đông Nam vào thế kỷ thứ V TDL.


 THỜI CHIẾN QUỐC (478 - 221 TDL)


        Thời kỳ này cục diện thay đổi nhiều, nếu kể cả 3 nước Ngụy, Triệu, Hàn, Ngụy thì thời Chiến quốc có tất cả 10 nước nhưng chỉ có 7 nước mạnh nên các sử gia còn gọi thời kỳ này là thời “Thất Hùng”. Đó là các nước Yên, Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Sở và Tần. Bảy nước này đều muốn trở thành bá chủ Trung Nguyên nhưng do tương quan lực lượng nên phải tổ chức thành liên minh “Hợp tung” gồm sáu nước Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở do Sở lãnh đạo chống Tần phương Bắc hùng mạnh. Để phá vỡ thế  Hợp tung của Tô Tần liên kết các nước theo trục dọc chống Tần. Trương Nghi đưa ra thế “Liên Hoành” thuyết phục các nước liên minh với Tần theo hàng ngang nhưng không thành. Nước Tần lúc bấy giờ ngày càng phú cường nhờ những cải cách triệt để do Thương Ưởng đề xướng thực hiện gồm triệt tiêu giai cấp quý tộc cũ, tạo lập một giai cấp mới gồm những quân nhân có nhiều chiến công, thực hiện chính sách khẩn hoang cho dân tự do khai phá đất đai tạo ra một thành phần phú nông ủng hộ triều đình. Lần đầu tiên trong lịch sử, đế chế Tần cho tổ chức quản lý hộ khẩu, chứng minh nhân dân, tổ chức cứ năm gia đình liên đới trách nhiệm trị an gọi là “Ngũ gia Liên bảo”, công bố thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh, bình đẳng về pháp luật giữa quý tộc và thứ dân nên chẳng bao lâu trở thành một nước giàu mạnh.[27] 


    Ngay từ năm 299 TDL Tần thắng Sở, bắt giam Sở Hoài Vương. Năm 278 TDL, Tần Bạch Khởi chiếm đất Dĩnh, Sở phải dời đô rồi Tần thắng liên tiếp Triệu, năm 260 TDL, 40 vạn quân Ngụy đầu hàng, Tần tiến vào Chu năm 256 TDL. Triều Chu phải dâng đất cho Tần, chấm dứt triều Chu trong lịch sử Trung Quốc. Năm 242 TDL, Tần Thủy Hoàng lên ngôi dùng Lã Bất Vi rồi Lý Tư, môn đệ của pháp gia Tuân Tử làm tướng quốc. Chỉ trong 10 năm sau đó Tần diệt Hàn (năm 230 TDL), Ngụy (225 TDL), Sở (223 TDL) và Tề (221 TDL) làm bá chủ Trung Nguyên trở thành đế chế Tần hùng mạnh. Sau khi gồm thâu lục quốc, Tần thống nhất văn tự quy định một lối chữ mới gọi là Tiểu triện áp dụng trên toàn quốc. Đồng thời cho thống nhất các đồ cân, đo lường và cả nông cụ, cày bừa kể cả khoảng cách giữa hai bánh xe để dễ thu thuế và chuyên chở lúa nộp thuế.[28] Nhưng quan trọng hơn cả là thống nhất tư tưởng để dễ bề thống trị, triệt tiêu mọi mầm mống chống đối nên Tần chủ trương diệt Nho, đốt sách, chôn sống nho sĩ. Buộc mọi người dân phải tuân phục những gì triều đình Trung ương đưa ra, không một ai được có ý kiến riêng tư nào khác ngoài chủ trương chính sách của Triều đình. Tần ghét nhất giới nho sĩ, triết gia mở trường tự dạy đạo lý, chỉ trích chiến tranh và hình phạt tàn bạo. Tần chỉ muốn nhồi nặn dân chúng trở kỷ luật, bảo gì nghe nấy. Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận là tội nặng nhất. Tứ Thư và Ngũ Kinh của đạo Nho bị coi là cực kỳ phản động vì khiến cho dân nhớ tiếc tôn ti trật tự xưa cũ của các triều đại vua chúa các nước ở Trung nguyên. Năm 213 TDL theo đề nghị của Lý Tư, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách và chôn Nho, đốt hết các bản Tứ thư, ngũ kinh và Bách gia chư  tử trong dân gian. Các bộ sử của lục quốc cũng phải đốt hết để triệt tiêu sử liệu về nguồn cội dân tộc. Ai không tuân lệnh mà lén lút giữ thì bị kết tội là phản động. Các chủ trương của Tần Thủy Hoàng trở thành kinh điển của chế độ độc tài Cộng sản sau này.


     Sử gia phương Tây và Sử gia Trung Quốc ca ngợi Tần Thủy Hoàng là vĩ nhân cổ kim vì chưa đầy 15 năm mà thống nhất Trung Quốc lập nên một đế chế phong kiến hùng mạnh nhất phương Đông. Thế nhưng hầu hết các sử gia đều phải công nhận trên 1.500 năm, không có một bạo chúa nào như Tần Thủy Hoàng. Theo Nguyễn Hiến Lê trong sử Trung Quốc đã nhận định: “Khi Đạo Khổng suy rồi, triều Minh mới theo triều Nguyên Mông dùng chính sách độc tài. Triều Thanh (Mãn Châu) cũng vậy và gần đây, còn tệ hại hơn nữa, Mao Trạch Đông đã tự hào rằng đã giết kẻ sĩ gấp trăm lần Tần Thủy Hoàng! Nhưng ông ta chưa chết thì cái gọi là “Cách mạng Văn hoá” của ông ta đã phải dẹp bỏ. Nhận định về các cuộc cách mạng đều do nông dân cả và một số học giả phương Tây bảo không một dân tộc nào mà nông dân làm cách mạng nhiều như dân tộc Trung Hoa. Một điểm đặc biệt là hầu hết họ là người trong giới bình dân,  vô học hay ít học, tài năng không có, tư cách tầm thường và chỉ có bọn họ mới thành công. Còn hạng tài cao, anh hùng cái thế thì thất bại như Hạng Võ rốt cuộc chỉ hạng tầm thường như Lưu Bang là làm nên sự nghiệp lớn vì nông dân nghe họ và họ biết nghe lời kẻ sĩ. Vậy thì làm cách mạng là hạng bình dân mà cách mạng thành công được là nhờ kẻ sĩ, xưa như vậy mà nay cũng thế![29] 


     Trên đây chúng ta sơ lược về lịch sử cổ đại Trung Hoa chính là để nhận thức rõ ràng rằng Việt tộc là tộc người làm chủ Trung Nguyên trước khi Hán tộc tràn xuống xâm chiếm làm chủ Trung Nguyên cho tới ngày nay. Năm 1766 TDL, tộc Thương tiêu diệt nhà Hạ nên cư dân nhà Hạ phải di cư xuống phía Nam sông Hoàng Hà thành lập quốc gia Bộc Việt. Suốt dòng lịch sử, Hán tộc đã liên tục xâm chiếm đất đai của các nước Bách Việt nên Việt tộc bị đẩy lùi xuống phương Nam. Cộng đồng Việt tộc phải ly tán đi khắp nơi thành lập các quốc gia mà sử sách cổ gọi là các nước Bách Việt. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các quốc gia Sở, rồi Việt đã đứng lên giành lại quyền lãnh đạo Trung Nguyên nhưng cuối cùng cũng bị Tần tiêu diệt, triệt tiêu cả văn tự lẫn xoá nhoà ký ức về cội nguồn dân tộc. Khi đế chế Tần suy vong, một lần nữa Việt tộc lại vùng dậy do Sở Bá Vương Hạng Võ lãnh đạo mà sử sách gọi là thời “Hán-Sở Tranh hùng”. Cuối cùng, Hạng Võ bị Lưu Bang vây khốn phải tự sát bên bờ Ô Giang cùng với nàng Ngu Cơ. Lưu Bang lên ngôi năm 202 TDL tức là Hán Cao Tổ mở đầu một triều đại hùng mạnh trong lịch sử Trung Quốc. Cùng thời kỳ này khi Tần suy vong, Triệu Đà lập nước NAM VIỆT liên kết với Mân Việt và Âu Việt rồi xưng là Triệu Vũ Đế hùng cứ một phương. Triệu Vũ Đế đem quân đánh Trường Sa buộc Hán Văn Đế phải thương lượng giao lại phần đất của Bách Việt từ phía Nam núi Ngũ Lĩnh trở xuống cho Triệu Vũ Đế và quốc gia Nam Việt, đổi lấy sự giao thương hoà hiếu như xưa. Thế nhưng khi triều Hán hưng thịnh thì chính Hán Vũ đế đã cử Lộ Bác Đức đem quân đánh chiếm Nam Việt và cử Mã Viện đem đội quân thiện chiến xâm lược đánh dẹp phong trào kháng chiến của Hai Bà Trưng năm 42 mở đầu thời kỳ đô hộ nước ta.


    Lịch sử Việt tộc khởi đầu từ thời đại Hùng Vương lập quốc với biết bao hưng phế thăng trầm mà đỉnh cao là thời kỳ Triệu Vũ Đế và quốc gia Nam Việt hùng cường hiển hách. Kế tiếp là thời kỳ suy vi vủa Việt tộc như một định mệnh của lịch sử mà tấm lòng trung của Thừa tướng Lữ Gia cùng với lòng yêu nước của quân dân Nam Việt cũng không xoay nổi vận nước. Sau đó là cái chết của Tây Vu Vương bởi lưỡi gươm oan nghiệt của tên phản quốc Hoàng Đồng, Âu Lạc suy vong. Sau khi thôn tính Nam Việt, Hán triều đổi tên nước Nam Việt là Giao Chỉ bộ gồm 9 quận là Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô (Quảng Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Hợp Phố (Quảng Châu), Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ An), Châu Nhai (Đảo Hải Nam) và Đạm Nhĩ nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam. Trên danh nghĩa Hán tộc sát nhập nước ta vào lãnh thổ Trung Quốc nhưng trên thực tế Hán tộc chưa thực sự kiểm soát được toàn bộ đất nước ta mà phần lớn các địa phương vẫn do Lạc Hầu Lạc Tướng tự trị cho đến khi Hai Bà Trưng thất bại năm 43, Hán tộc mới thực sự thống trị dân ta. Năm Quý Mùi (203) Hán Hiến Đế thời Đông Hán đổi tên Giao Chỉ bộ thành Giao Châu theo đề nghị của thứ sử Trương Tân và Thái Thú Sĩ Nhiếp. Đến đời Tam Quốc, đất Giao Châu thuộc Đông Ngô. Năm 226, Ngô Tôn Quyền tách Giao Chỉ Bộ ra làm hai là Quảng Châu gồm Quảng Đông, Quảng Tây và một phần Quý Châu và Giao Châu gồm Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Về sau Đông Ngô lại bỏ Quảng Châu và gọi chung là Giao Châu như cũ. Năm 622 Đường Cao Tông đặt Giao Châu Đại Tổng quản phủ để cai quản 12 châu đến năm 679 lại đổi Giao Châu thành An Nam Đô Hộ phủ cai quản 12 châu, 59 Huyện. Hán tộc gọi tên nước ta một cách miệt thị là An Nam bắt đầu từ đấy. 


    Trong suốt ngàn năm đô hộ, giặc Tàu chủ trương thống trị và đồng hoá dân tộc ta nên đã không từ một âm mưu thủ đoạn thâm độc quỷ quyệt để nô dịch văn hoá, triệt tiêu văn tự kể cả sách vở, văn bia, đền đài đình chùa, miếu mạo của dân tộc Việt. Chữ Việt cổ đi dần vào quên lãng, thay vào đó là bắt dân ta phải học chữ Hán nhưng lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn là kẻ thù có thể chiếm đóng, đô hộ dân tộc ta nhưng không thể khuất phục được tinh thần quật cường của Việt tộc. Thời kỳ này, Phật giáo truyền tới Việt nam từ lâu đã hội nhập vào dòng vận động lịch sử của Việt tộc. Để chống lại chủ trương triệt tiêu văn tự, xoá mờ nguồn cội dân tộc, giới sĩ phu và các tăng sĩ yêu nước đã gởi gấm vào kinh sách qua tập Lục Độ Kinh câu truyện người lấy Rồng, truyện trăm trứng nở trăm con của truyền thuyết khởi nguyên dân tộc để bảo lưu cho thế hệ cháu con về nguồn cội dân tộc. Chính qua truyện kể trong kinh sách cũng như câu truyện truyền miệng dân gian về huyền thoại Rồng Tiên từ đời này qua đời khác, về truyền kỳ lịch sử đã ấp ủ nuôi dưỡng tự tình dân tộc, thôi thúc ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ cho dân tộc. Trong suốt thời kỳ Hán thuộc, nhân dân ta liên tục đứng lên khởi nghĩa giành độc lập dân tộc khiến Hán triều điêu đứng. Khởi đầu là cuộc khởi nghĩa của HAI BÀ TRƯNG giành lại quyền độc lập tự chủ được gần 4 năm (39-43), kế tiếp là cuộc khởi nghĩa của nhân dân quận Tượng Lâm năm 101, cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân các quận Tượng Lâm Cửu Chân và Nhật Nam năm 138 dẫn tới sự thành lập quốc gia Lâm Ấp. Năm 138, nhân dân Cửu Chân lại nổi dậy giết tên Thái thú Nghê Thức làm chủ quận huyện đến năm 161. Năm 163, nhân dân Nam Việt lại nổi lên đánh chiếm Quế Dương và Thương Ngô. Tháng 5 năm 163, quân dân khởi nghĩa chiếm toàn bộ quận Thương Ngô, Nam Hải và Giao Chỉ. Tháng 5 năm 166 Bốc Dương, Phan Hồng, Lý Nghiêu, Hồ Lan và Chu Cái lãnh đạo nhân dân đánh chiếm Linh Lăng Quế Dương. Thái thú Thương Ngô bị bắt sống, nhân dân giành lại quyền độc lập tự chủ một thời gian. Năm 178, người anh hùng dân tộc Lương Long lại lãnh đạo nhân dân các quận Hợp Phố Giao Chỉ và Cửu Chân khởi nghĩa giành lại độc lập tự chủ được hơn 4 năm từ 178-182. Kế tiếp là cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, Lã Hưng năm 263. Năm 280, Tấn diệt Ngô nhân dân Giao châu lại làm chủ đất nước một thời gian. Năm 468, Lý Trường Nhân lãnh đạo nhân dân nổi lên giành lại quyền độc lập tự chủ được 17 năm. 


    Đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn năm 544 giành lại quyền độc lập tự chủ hơn nửa thế kỷ. Lý Bôn lên ngôi xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là VẠN XUÂN, thành lập nhà Tiền Lý. Từ khi Lý Bôn đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu năm 544 đến năm 602 triều Tùy đem quân sang đánh Lý Phật Tử tính ra được 58 năm. Thời Tùy Đường, năm 687 Lý Tự Tiên và Đinh Kiến khởi nghĩa nhưng mau chóng thất bại sau một vài thắng lợi. Năm 722, Mai Thúc Loan lãnh đạo nhân dân nổi lên giành độc lập. Cuộc khởi nghĩa được sự ủng hộ của nước Lâm Ấp và Phù Nam nên thành công mau chóng, đất nước tự chủ được 5 năm. Đến năm 783, Phùng Hưng lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành lại độc lập từ tay quân Đường được 7 năm, nhân dân cả nước suy tôn là Bố Cái Đại vương. Năm 806, Dương Thanh đánh chiếm phủ thành và giết chết Lý Tượng Cổ. Liên tiếp những năm 838, 841, 858, 860 và 863 Dương Tư Tấn cùng với quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tiêu diệt 15 vạn quân Đường làm chủ Giao Châu. Triều Đường phải rút An Nam đô hộ phủ về Trấn Hải Môn Uất Lâm thuộc lãnh thổ TQ bây giờ. Năm 905 Khúc Thừa Dụ nhân lúc triều Đường xụp đổ chiếm giữ Giao Châu, xưng là Tiết độ sứ nắm quyền tự chủ được hơn 23 năm. Mãi đến năm 938, với chiến thắng Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền mới chính thức mở đầu thời kỳ độc lập, phục hưng dân tộc Việt Nam.        


    Suốt chiều dài của lịch sử, Việt tộc phải đương đầu với các cuộc xâm lấn của Hán tộc ngay từ thời cổ đại cho đến các triều Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh và siêu đế quốc Trung Cộng ngày nay. Việt Nam chiếm một vị trí địa lý nằm sát cạnh đế chế “Đại Hán” hùng mạnh, lại chiếm giữ vị trí địa lý chiến lược xung yếu, vừa là nơi giao lưu văn hoá Đông Tây, đồng thời là cửa ngõ kiểm soát toàn bộ hải trình từ Tây qua Đông và ngược lại nên các thế lực từ phong kiến bành trướng tới thực dân, đế quốc luôn tìm cách thôn tính, khống chế, áp đặt nước ta phục vụ ý đồ kinh tế và chiến lược của họ. Thế nhưng, thực tế chứng minh một cách hùng hồn sự tồn tại của một dân tộc có hơn 6 ngàn năm lịch sử với ngàn năm văn hiến trước bao kẻ thù thâm độc bạo tàn dù chúng nấp dưới bất kỳ chiêu bài hoa mỹ nào. L'Aurousseau, một học giả Pháp đã nhận định một cách khách quan về tinh thần dân tộc Việt Nam khi viết về cuộc chinh phục đầu tiên của Trung Quốc. Ông viết: “Không có gì thắng được cái sức sống mạnh mẽ của người Việt Nam”. Paul Mus một nhà Việt Nam học đã từng viết về sức chiến đấu mãnh liệt của dân tộc Việt Nam để đồng hoá dân tộc thống trị hơn là bị đồng hoá vào dân tộc thống trị: “Ngay từ ngày lập quốc, tất cả then chốt lịch sử Việt Nam đều ở cả cái tinh thần đối kháng, đã biết kết hợp một cách diệu kỳ, một bên là năng lực đồng hoá lạ lùng, bên kia là ý chí quật khởi quốc gia không chịu khuất phục mặc dầu thua trận, bị phân tán, bị chinh phục. Hơn một ngàn năm bị sát nhập hoàn toàn vào Trung Quốc, từ thế kỷ thứ II trước kỷ nguyên đến thế kỷ thứ X sau kỷ nguyên, thay vì làm cho dân tộc Việt Nam kiệt quệ thì ngược lại đã làm cho dân tộc này trở nên hùng cường…”.[30] 


    Trong bộ Bách khoa từ điển (Encyclopaedia Universalis) xuất bản ở Paris năm 1992 đã viết về Việt Nam do nhà sử học Phillipe Devilière chủ biên với sự tham khảo hơn 60 học giả Âu Mỹ, Danielle Emeri đặt câu hỏi “Lịch sử Việt Nam là gì? rồi ông tự trả lời “Đó là cuộc đấu tranh không ngừng cho sự tồn vong của cả một dân tộc”. Nhà sử học Phillipe Devilìere khẳng định “Trải qua hơn 4000 năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ có một sức sống phi thường. Suốt 10 thế kỷ bị Trung Quốc thôn tính, người Việt Nam vẫn giữ nguyên bản sắc dân tộc và liên tiếp nổi dậy đánh đuổi kẻ xâm lược ỷ vào sức mạnh tưởng có thể khuất phục được họ. Lịch sử đã đặt lòng tin vào dân tộc ấy và đã chứng minh khả năng đề kháng, óc sáng tạo, tính kiên trì và sự thích ứng với mọi cuôïc chiến gian khổ nhất, khó khăn nhất và kể cả không cân sức nhất. Người Việt Nam tự hào với quá khứ của mình, tôn vinh những bậc vĩ nhân đã tô điểm rạng rỡ quá khứ đó và quá khứ dù xa xăm hay gần đây luôn luôn có mặt khắp nơi trên đất Việt Nam, tác động mạnh mẽ vào hiện tại và tương lai”. Cuối cùng, Phillipe Devilìere nhận định: “Việt Nam giữ một vị trí chiến lược rất quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và Việt Nam có bề dày lịch sử hơn hẳn nhiều vương quốc châu Âu như Pháp, Anh, Tây Ban Nha dù rằng đối với phương Tây, hai tiếng Việt Nam vẫn còn mới mẻ”.
       


    Những kỳ tích lịch sử kể từ thời lập quốc đến nay bắt nguồn từ truyền thống của một dân tộc có lịch sử lâu đời  ngàn năm văn hiến với nền văn minh đạo đức xa xưa. Chính truyền thống YÊU NƯỚC THƯƠNG NÒI của dân tộc CON RỒNG CHÁU TIÊN đã viết lên những trang sử đẹp nhất nhân loại. Nữ sĩ Blaga Dimitrova viết “Việt Nam là xứ sở của địa linh nhân kiệt, một dân tộc với truyền thuyết đầy bí ẩn và một lịch sử quá oai hùng đến nỗi khó mà phân biệt đâu là huyền thoại, đâu là hiện thực nữa!”. Tự xa xưa truyền thuyết về nguồn cội con Rồng cháu Tiên của Việt tộc đã là niềm tự hào vinh dự của mỗi con dân đất Việt. Chính tự tình dân tộc truyền thừa hơn sáu ngàn năm lịch sử hun đúc chí khí Việt đã trở thành truyền thống VIỆT NAM. Từ những giá trị tinh thần cao đẹp tuyệt vời của truyền thống Việt Nam đã sản sinh những con người Việt Nam nhân đạo hiền hoà nhưng khí phách hùng anh siêu vượt. “Việt Nam, Việt nam tên gọi là người ... Việt Nam hai tiếng nói trên vành môi, Việt Nam nước tôi… Việt Nam Muôn năm, đời đời tiếp nối. Việt Nam Muôn năm, anh dũng đứng lên. Việt Nam Muôn năm, anh hùng cứu quốc. Việt Nam Muôn Năm, sống mãi Muôn đời…”.[31] Hai tiếng Việt Nam thân thương vời vợi ấy nghe từ vào đời, từ khi còn nằm trong nôi cho tới lúc bập bẹ tiếng người, bên tai lời ru hỡi ru hời của mẹ “À ơi công cha như núi Thái Sơn .. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con ơ ờ…”.[32] Lời ru ngọt ngào êm ái đó thấm đậm bài học đầu đời của đạo lý làm người để rồi lớn dần theo năm tháng, đêm đêm bên ngọn đèn dầu leo lét dưới mái ấm gia đình nghe ông kể truyển cổ tích họ Hồng Bàng. Từ đó, huyền sử Rồng Tiên thẩm nhập tiềm tàng trong dòng máu của mỗi con dân đất Việt như một “Gene truyền thống” của lòng yêu nước thương nòi mà không một dân tộc nào có được. Chính niềm tự hào truyền thống này đã hun đúc tinh thần dân tộc, ý chí quật cường, lòng kiên trì quả cảm của sức sống mãnh liệt vô biên Việt Nam đã tạo nên khí thế đạp đầu thù. Tự thân lịch sử Việt Nam, từ huyền sử đến hiện thực đã là một thiên anh hùng ca bất hủ có một không hai trong lịch sử nhân loại mà Bản Tuyên ngôn Độc lập dân tộc viết bằng máu của biết bao thế hệ Việt Nam đã được danh tướng Lý Thường Kiệt tuyên cáo trước nhân loại còn vang vọng mãi tới muôn đời.      


                Nam Quốc Sơn hà Nam Đế cư                Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư                Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm                Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !


                                        Sông núi trời Nam của nước Nam                 Sách trời định rõ tự muôn ngàn                 Cuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn                 Chuốc lấy bại vong lũ bạo tàn...                        ( Phạm Trần Anh cẩn dịch)




[1] Nguyễn Anh Thái: Lịch sử lớp 12 tập I, NXB Giáo Dục, Hà Nội 1987.
[2] Ngày 1-9-1976, Tân Hoa Xã đưa tin về  cái chết của Mao Trạch Đông như sau: “Sự lặn tắt của Mặt trời cách mạng phương Đông, Sự ra đi của một lãnh tụ thiên tài của cách mạng Trung quốc và cách mạng vô sản trên toàn thế giới”. Khi Trung Quốc đem quân tràn qua biên giới 17 tháng 2 năm 1979 thì Cộng Sản Việt Nam lên tiếng đả kích Mao Trạch Đông thậm tệ“Những nhà nghiên cứu về TQ đều thống nhất ở một điểm: Mao là kẻ đầy tham vọng, tráo trở, xảo trá với những mưu ma chước quỉ, những thủ đoạn xảo quyệt và tàn bạo ít có trong lịch sử. Chính Mao đã tàn phá xã hội Trung quốc, đã đầu độc tư tưởng của đông đảo đảng viên Cộng sản và quần chúng cách mạng Trung quốc. Mao là một tấn thảm kịch đối với nhân dân Trung quốc. Tội ác do Mao đã gây ra những thiệt hại khổng lồ về tinh thần lẫn vật chất cho nhân dân Trung quốc”. (Mao, tấn thảm kịch của đảng CS Trung quốc. Nhà Xuất bản Thông tin lý luận. Hà Nội tr 5 )
[3] Sử gia chi tuyệt xướng, vô tận chi Ly Tao.
[4] Đại cương Lịch sử Văn Hóa Trung Quốc của Giáo sư Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quí, Thành Hiểu Quân và Lâm Quốc Bình.
[5] Nội chư Hạ, ngoại Di địch.
[6] Chữ Hán nguyên thủy tượng hình vách đá, sườn núi hàm ý chỉ tộc người du mục sống ở hang động ở vùng rừng núi cao miền Tây Bắc sau thiên di xuống Trung nguyên.
[7] Thương là tộc người sống đời du mục ở Tây Bắc chịu ảnh hưởng của nền văn minh du mục Mông Cổ và Thổ (Turc). Tộc Thương nuôi và cưỡi ngựa thành thạo, có chiến xa giống chiến xa của các nước Tây Á, đặc biệt là của Thổ Nhĩ Kỳ nên đánh thắng các chi tộc Bách Việt sống bằng nghề Nông một cách dễ dàng. Thành Thanh là vua đầu tiên của triều Thương được nhà Hạ phong cho đất Thương, đến đời Kiệt, đem quân về diệt Hạ, lên ngôi đóng đô ở Hà Nam, đặt tên nước là Thương. Ngày nay các nhà nghiên cứu đều cho rằng văn hóa Thương xuất phát từ Hoài Di tức văn hóa Di - Việt của người Việt cổ. Lãnh thổ Thương thời đó chỉ gồm có mấy tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc và một phần tỉnh Hà Nam. Trong khi đất của người Việt cổ mà cổ sử TQ gọi là Di Việt trải rộng khắp Trung nguyên gồm Sơn Đông, Đông Hà Nam, Bắc Giang Tô, Đông Bắc An Huy và cả miền duyên hải Hà Bắc, Trực Lệ,  Liêu Đông và bán đảo Triều Tiên trong đó có những tên họ như họ Thái Hạo (Phục Hi), Thiếu Hạo (Thần Nông), họ Phong, họ Doanh, họ Yểm ..

[8] Tần Thủy Hoàng sai thừa tướng Lý Tư thống nhất ngôn ngữ và văn tự. Đế chế Tần qui định một lối chữ khác gọi là Tiểu Triện. Tất cả các nước cùng phải nói một thứ tiếng đó là phát âm Quan thoại, viết chữ tiểu triện. Tất cả sách vở nhất là sách sử các nước phải giao nộp triều đình và đốt hết, ai còn lưu giữ bị coi là phản quốc và bị xử tội chết. ngay cả xe cộ phải cùng một trục có cùng một kích cỡ, sách vở phải viết cùng một lối chữ nên sách sử xưa gọi là thời kỳ “Xa đồng quỹ, thư đồng văn”  nghĩa là xe cộ cùng một cỡ, sách vở cùng một lối chữ.
[9] Nguồn gốc của chữ CINA có nhiều cách giải thích khác nhau. Cina là tên gọi xưa nhất mà ngày nay người ta có thể biết đến là cách gọi của người Ấn Độ được ghi chép trong các sách bằng tiếng Phạn và đã được phiên âm ra tiếng Hán là china. Để biểu lộ sự tôn trọng với quốc gia rộng lớn này, người Ấn Độ còn thêm vào trước hoặc sau chữ cina tiếp đầu ngữ Maha hoặc tiếp vĩ ngữ Sthana nên viết là Mahacina hoặc Cinasthana, từ đó biến thành Mahacinasthana là nước Trung hoa vĩ đại. Trước đây người ta cho rằng tên gọi này là phiên âm của chữ Tần thời Xuân thu chiến quốc cũng chính là đế chế Tần sau khi làm chủ Trung nguyên năm 221 TDL. CINA trong tiếng Phạn đã trở thành tên riêng của Trung quốc và ngày nay được nhiều nước sử dụng. Tuy cách viết có khác nhau chút ít tùy ngôn ngữ  từng nơi như ở Anh, Đức là China, Pháp là Chine, Ba Tư : chin, La Tinh: Sinae, Italy: Cina.

       Gần đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng chữ CINA đã xuất hiện trong 2 bộ sử thi Mahabbarata và Ramayana của Ấn Độ ra đời từ thế kỷ thứ V TDL. Hai tác phẩm này dịch ra tiếng Tạng bằng thơ trong đó Cina được âm là China. Như vậy, tên Cina xuất hiện rất sớm trước thời của đế chế Tần một thời gian khá lâu. Hơn nữa theo sử ký của Tư Mã Thiên trong thiên Tây Nam di liệt truyện thì hàng hóa của nước Kinh Sở (Trung quốc) đã có mặt ở Ấn Độ trước khi Tần ra đời. Do đó CINA có thể là tên gọi của nước KINH, một tên khác gọi nước Sở. Nước Sở ra đời tại ấp Kinh, đất Kinh Việt, vùng Kinh Châu nên còn được gọi là KINH SỞ. Về mặt phát âm thì Kinh (Jing) gần với cina hơn Tần (Qin). Điều này phù hợp với thực tế lịch sử vì trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung quốc, Sở là một nước lớn từng bang giao và buôn bán với nhiều nước láng giềng ở phía Tây TQ. Việc đi lại giữa nước Sở và các nước ở Tây Vực thời đó đã thuận lợi hơn trước nhiều.(Theo Trung Hoa Lữ du trí thức tinh hoa, NXB Bắc Kinh).


[10] Ngay từ lời nói đầu của Tiền Hy Tộ, sử quan triều Thanh khi đưa sách Đại Việt sử lược vào Thủ sơn các tùng thư và Khâm Định Tứ khố toàn thư đã bộc lộ cái gọi là sử quan “thiên triều đại Hán” của y. Tiền hy Tộ viết “Nước An Nam từ đời nhà Tống trở về sau vẫn giữ lệ cống. Vậy mà nhân lúc triều trước loạn lạc, không ai chế ngự mới bèn trộm đế hiệu, lại còn ghi rõ trong sử sách để tự khoe khoang, càn quấy, thật là điều trái lẽ không đáng nói làm gì. Tuy vậy, các vua Ngô, Sở tiếm hiệu thì kinh Xuân Thu đã chê mà nhà viết truyện cũng không bỏ mất sự thật của nó.. Cho nên dựa vào ngụy sử, theo lệ mà chép là để cho rõ cái tội của nó và cũng là để bổ cứu cho phần ngoại truyện của Tống sử và Nguyên sử hiện chưa đầy đủ”. Xuân Thu là tên bộ sử ký nước Lỗ do Khổng Tử (551- 479 TDL) san định lại. Bộ sử biên niên này chép lại công việc theo thể biên niên từ năm đầu Lỗ Ẩn Công đến năm thứ 15 Lỗ Ai Công (722 - 479 TDL) tất cả là 243 năm. Đó là thời kỳ các nước chiến tranh giành quyền lãnh đạo Trung nguyên. Người đời sau lấy tên bộ sử này để gọi thời kỳ này là thời Xuân Thu.

[11] Giao Châu Ngoại Vực Ký chỉ được biết đến khi Lệ Đạo Nguyên dẫn ra trong tác phẩm Thủy Kinh chú của ông. Như vậy, sách này được viết ra trước thế kỷ thứ VI.
[12] Quảng Châu Ký không rõ ai là tác giả nhưng Tư Mã Trinh đã dẫn ra họ Diêu có thể là Diêu văn Hàm hoặc Diêu Sát. Theo Tư Mã Trinh thì Quảng Châu ký ra đời trước thế kỷ thứ VII nếu không là thế kỷ thứ V và thứ VI.
[13] Nam Việt chí của Thẩm Hoàng Viễn viết khoảng sau năm 454.
14.Thủy Kinh chú của Lệ Đạo Nguyên. Tác giả từng là Thứ sử Giao Chỉ. trong quyển Thời đại Hùng Vương, nhà xuất bản Khoa hoc xã hội tr 33 ghi là Lịch Đạo Nguyên, tác giả Thủy Kinh chú.

[15]Hữu Sào: Tương truyền Toại Nhân họ Hữu sào thuở ban sơ, dạy dân cách làm nhà trên cây để tránh thú dữ làm hại. Điểu tục hữu sào là tục của chim làm tổ trên cây, thuở xa xưa chi Âu Việt thờ vật tổ là chim nên làm nhà sàn cách mặt đất để tránh thú dữ. Hán tộc thuở xưa còn ở trong hang nhưng vẫn chê tục làm nhà sàn của người Việt cổ là làm tổ trên cây bên sườn núi!
[16] Li Vưu: các sách cổ TQ chép là Xi Vưu để miệt thị người Việt cổ. Theo Kim Định thì nguyên là Li Vưu nghĩa là Rồng cao cả phi thường. Theo Ngũ Đế kỷ thì Li Vưu là hậu duệ của dòng Thần Nông phương Nam. Nguồn thư tịch khác cũng cho biết thêm Li Vưu là chúa tể của tộc Miêu, một chi tộc trong Bách Việt ở phương Nam.
[17] Hoàng Đế: Cổ thư chép Hoàng Đế sinh ở gò Hiên Viên nên còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế Cổ sử TQ nhận Hoàng Đế là thủ lĩnh liên minh các bộ lạc, sau khi đánh bại Li Vưu lên ngôi cộng chủ là Tổ của Hán tộc. Thế nhưng các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy rằng đó chỉ là sự mạo nhận mà thôi. Thực ra Hoàng Đế là Đế Hoàng, vua nước Hữu Hùng là người Việt cổ, lấy đức thổ làm vua nên gọi là Hoàng Đế.
[18] Cổ thư TQ lại chép ngũ đế là Hoàng Đế, Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn.
[19] Đế Chí yếu đuối kém cỏi nên chư hầu tôn ông Nghiêu ỏ đất Ký lên ngôi vua Đế Nghiêu là con thứ của Đế Cốc, em của Đế Chí. Đế Cốc là cháu Đế Thiếu Hạo (2597TDL). Thiếu Hạo họ Kim Thiên dòng Thần Nông có tục thờ vật tổ Chim (Thái Hạo thờ Rồng, Thiếu Hạo thờ chim). Tương truyền, Thiếu Hạo được Tả chí lập nên nhờ có một đội quân đội lốt chim muông từ phương Tây qua đánh thắng thú rừng nên sử gia Tư Mã Thiên không công nhận Đế Thiếu Hạo vì cho rằng Thiếu Hạo cướp ngôi vua của con Hoàng Đế. Thiếu Hạo cai trị thay Đế Hoàng từ 2597- 2514 TDL. (Theo nhà nghiên cứu Tiên Tích Việt, gs Nguyễn Đoàn Tuân).
[20] Truyền hiền bất truyền tử: Ngày nay thường ca tụng Thuở Nghiêu Thuấn là thời đại “Truyền hiền bất truyền tử”, thời thái bình thịnh trị nên chọn người hiền để truyền ngôi chứ không truyền ngôi cho con. Đến đời nhà Hạ mới truyền ngôi cho con mở đầu cho thời quân chủ thế tập. Theo Tiên Tích Việt thì truyền thống người Việt cổ xưa xem ngôi vua là Nhân quân nên khi dòng sinh vượng khí của dòng họ đã hết thì tìm người xứng đáng để nhường ngôi để tránh chuyện tranh giành soán đoạt ngôi vua gây bao nỗi đoạn trường cho trăm họ. Đây chính là chế độ suy cử Thủ lĩnh Quân trưởng của người Việt cổ.
[21] Đế Thuấn ( 2255 - 2205 TDL ) truyền ngôi cho Vũ còn gọi là Đại Vũ hoặc Hạ Vũ vì là thủy tổ nhà Hạ, có công trị  thủy. Chính Khổng Tử cũng phải ca ngợi: “Không chê  vào đâu được vì vua Vũ sống đạm bạc mà cúng tế quỷ thần thì trọng hậu”.
[22] Theo Nguyễn Hiến Lê trong Sử Trung Quốc thì sự thật lúc đó, chế độ thị tộc đã không còn bầu thủ lĩnh nữa mà truyền ngôi thủ lĩnh cho con hoặc em.
[23] Thời kỳ này, sử TQ ghi là nhà Ân đánh nước Quỷ Phương, đóng quân ở đất Kinh. Huyền tích Việt kể rằng giặc Ân xâm lược nước ta vào đời vua Hùng thứ sáu bị cậu bé nhà Trời làng Gióng dùng roi sắt đánh cho tan tác. Sau khi thắng giặc Ân, cậu bé bay lên trời. Nhân dân suy tôn là Phù Đổng Thiên Vương.
[24] Tuy cổ sử gọi là chư hầu nhưng trên thực tế chỉ là những bộ lạc. Con số 3 ngàn là con số phóng đại mà thôi.

[25] Lê Huy Tiêu: Nguồn gốc các từ Trung Quốc.
[26] Tuy cổ sử gọi là chư hầu nhưng trên đất Sở thuộc vùng núi Kinh đất Kinh Việt. Hùng Dịch lên ngôi lấy hiệu là Kinh Tuyên Vương chứng tỏ là hậu duệ của Kinh Dương Vương. Hùng Dịch lấy tên Sở là vùng đất trồng cây gai đực không có hoa gọi là cây Sở.
[27] Nguyễn Hiến Lê: Sử TQ tập I tr 146.
[28] Sách vở cùng một loại chữ viết Quan Thoại cua Tần gọi là Tiểu Triện. Trục xe của tất cả xe cộ đều cùng một kích cỡ nên sách xưa gọi là “Xa đồng quĩ, thư đồng văn”.
[29] Nguyễn Hiến Lê: Sừ Trung Quốc tập I tr 117,127.
[30] Thanh Lãng: Văn Học Việt Nam Đối Kháng Trung Hoa. NXB Phong Trào Văn Hóa Sài Gòn 1969.
[31] Tên bài hát Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy và Việt Nam Muôn Năm của Phạm Trần Anh.

[32] . Núi Thái Sơn là tên ngọn núi mà người iệt cổ đặt tên cho ngọn núi cao nhất vùng Hoa Dương chân cao nguyên Tây Tạng. Chi Lạc bộ Trãi của Việt tộc thiên cư xuống vùng bán đảo Sơn Đông cũng lấy tên Thái Sơn đặt tên cho ngọn núi cao nhất vùng này nên đi vào ca dao Việt Nam. Khi Hán tộc xâm chiếm vùng quê cha đất Tổ, tiền nhân chúng ta đã mang trong tâm thức Việt tên ngọn núi Thái Sơn vào câu ca dao Việt để so sánh công ơn của người cha như ngọn núi Thái Sơn cao ngất trời xanh này.

No comments:

Post a Comment