HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN
THANH MÙA XUÂN KỶ DẬU 1789
Với bản chất cố hữu của “Đại Hán xâm lược” nên triều
Thanh nhân cơ hội Lê Chiêu Thống cầu cứu, Càn Long điều động binh mã 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu gồm 20 vạn quân lính và dân phu tiến sang nước ta. Sách sử của nước ta ghi là 20 vạn quân Thanh,
trong khi Thanh Sử chỉ chép có
18 ngàn quân
chủ lực
để biện
minh cho sự thất trận. Ngay từ thời
Minh mà Minh Thành Tổ đã
huy động được hơn 17 vạn quân của 2 tỉnh Quảng Đông
và Quảng Tây, đặt dưới quyền điều động của tướng Mao Bá
Ôn (1482 - 1545) thì
đến triều
Thanh, số quân
huy động cả
Vân Nam, Quý
Châu chắc chắn phải bằng hoặc hơn số quân thời Minh. Như vậy, ngoài gần 2 vạn
binh sĩ chủ lực mà sách sử Thanh chép là Lục Kỳ binh, còn gọi là Lục
Doanh binh, là đơn vị
quân đội trong đó quân binh là Hán tộc. Số quân còn lại gồm
thổ binh, nghĩa dũng
là quân địa phương các tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây, Vân Nam cũng phải gấp 5, 10 lần quân chủ lực. Ngoài ra phải tính tới số dân phu chuyên chở lương
thực và khí giới mỗi
thứ mấy chục vạn thì tính tổng cộng
cả quân chủ lực,
quân địa phương và dân binh có thể lên tới ít nhất
là hai mươi vạn người…
Tổng Đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ
Nghị được cử làm Tổng chỉ
huy 4 đạo quân xâm lược tiến
vào nước ta theo 4 đường. Tháng 11 năm
1788, quân Thanh ồ ạt vượt biên giới tiến
vào nước ta. Quân Thanh tiến chiếm
Thăng Long không tốn một mũi tên một viên đạn nên nảy sinh
kiêu căng tự mãn. Tôn Sĩ Nghị giương giương tự đắc huênh hoang tuyên bố: “Giặc còn gầy, ta hãy nuôi
cho béo, để cho chúng tự đem mình đến nạp mạng cho ta...” Thế nhưng, bài học đầy xương máu của lịch sử buộc Tôn Sĩ Nghị
ngoài miệng nói huênh hoang nhưng trong lòng
lo sợ nên y phải án binh bất động để nghe ngóng tình hình chưa dám manh động. Hơn nữa ngày tết cận kề nên bọn tướng
sĩ giặc lo vui chơi hưởng
thụ, quân lính giặc nhân cơ hội này tha hồ cướp
bóc hãm hiếp phụ nữ ban ngày ban mặt giữa
chốn kinh thành. Lê Chiêu Thống
thì ngày ngày sang chầu chực
bên dinh Tôn Sĩ Nghị,
dâng hết cao lương này
đến mỹ vị nọ, nem công chả phượng,
rượu thịt ê hề. Để
cung ứng nhu cầu không bao giờ đủ cho quân Thanh, tên vua bán nước cầu vinh này phải ra sức đốc thúc quân lương, các
châu huyện kêu trời
vì không cung ứng nổi.
Mấy năm trước nhân dân bị mất
mùa nên thóc gạo không đủ ăn, năm nay lại đói
kém hơn nữa, thế mà Chiêu Thống
lại chia quan đi các nơi hạch sách đốc thúc vơ vét tài sản cuối cùng của người
dân đến nỗi “Nhiều nơi dân nghèo phải van xin khóc lóc mà dâng nộp, bao nhiêu lương thực tiền bạc thu được của dân đều đem dâng nộp hết cho bọn giặc...” Người
người ta thán, nhà nhà uất hận.
Ngay cả Thái hậu và các trung thần của nhà Lê cũng phải “Kêu trời khi thấy họa diệt vong đến nơi rồi. Lịch sử nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ chưa thấy bao giờ có tên vua luồn cúi đê hèn như thế !!!”
Ngày 22 tháng 12 năm 1788 tức ngày 25 tháng chạp tết Kỷ Dậu, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn lập đàn “Tế cáo Trời đất” ở phía Nam núi Ngự Bình kinh đô
Phú Xuân. Bắc Bình Vương lên
ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Quang Trung: “Giương cao ngọn cờ Đại Nghĩa, thuận
lòng Trời hợp ý dân” để làm lễ xuất quân đại phá quân Thanh xâm lược. Sách sử chép rằng “Quân đi đến đâu, các bậc phụ lão bày hương án bên đường còn thanh
niên trai tráng khắp nơi đổ về náo nức tòng quân.
Quân đến Nghệ An, chỉ trong mấy ngày mà quân
số lên đến hơn mười vạn người...” Danh sĩ Nguyễn
Thiếp đất Nghệ An đã
về ở ẩn nhưng hết lòng ủng hộ người anh hùng dân tộc chống
quân Thanh xâm lược. Trước
khí thế của toàn quân toàn dân, danh sĩ đã tiên đoán: “Nếu đánh gấp thì không quá
10 ngày, còn nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà đoán được...”
Ngày
15 tháng 1 năm 1789, hai đạo quân của
Ngô văn Sở và Ngô Thì Nhậm đã
hội quân với đại
quân tại phòng tuyến Tam Điệp để chuẩn bị cho chiến dịch
tổng tiến công thần tốc quét sạch quân thù ra khỏi đất nước. Chiến dịch
“Tổng Tiến Công Thần Tốc” đã được hoạch định với 5 đạo quân tạo thành 5 mũi
tiến công đồng loạt
các doanh trại, đồn lũy giặc để bẻ gãy thế liên hoàn không cho chúng có thì giờ tiếp cứu lẫn nhau. Ngày 29 tháng chạp,
Hoàng Đế Quang Trung tổ chức mở tiệc khao quân cho quân sĩ ăn tết trước để rạng sáng 30 tết xuất
quân thần tốc, bất ngờ, quyết chiến
quyết thắng. Đêm 29 tết, toàn quân làm lễ “Thệ sư” giữa núi rừng u linh vang lên lời hịch xuất quân của
Quang Trung Hoàng Đế:
“Đánh cho được để đen răng Đánh cho được để dài tóc
Đánh cho xe giặc tan tành, Đánh cho quân thù tơi tả Đánh cho sử sách lưu danh Đất Nước Việt Nam hùng anh Muôn thuở...”
Hoàng đế Quang Trung cùng toàn thể
quân sĩ thề quyết tâm giết giặc để mồng 7 tết sẽ
vào thành Thăng Long làm lễ “Hạ Nêu” mừng chiến
thắng. “Hỡi ba quân tướng sĩ, các ngươi nhớ xem lời ta nói có đúng không?.” Đại danh tướng, Hoàng Đế
Quang Trung vừa dứt lời, toàn quân hô dạ vang trời
như sấm rền, rung động cả
núi rừng... Tiếng trống
lệnh xuất quân dồn dập, toàn quân ai nấy náo nức
trong lòng, dồn dập tiến bước trong màn đêm lạnh lẽo của núi rừng Tam Điệp chập chùng...
Đánh cho xe giặc tan tành, Đánh cho quân thù tơi tả Đánh cho sử sách lưu danh Đất Nước Việt Nam hùng anh Muôn thuở...”
Tảng
sáng 30 tết, đại quân đã vượt sông Gián Khẩu tức
sông Đáy tấn công các cứ điểm tiền tiêu của giặc.
Lần lượt Gián Khẩu, Thanh Quyết rồi Nhật Tảo bị tiêu diệt gọn,
không một tên giặc nào chạy
thoát. Chiến dịch hành quân thần tốc,
bất ngờ bốn hướng tập kích đồng bộ
khiến quân giặc bị
tiêu diệt gọn không kịp tháo chạy. Đúng nửa đêm mồng 3 tết, quân ta đã
bao vây đồn Hà Hồi ở Thường Tín Hà Tây cách Thăng Long chưa đầy 20 cây số. Quân giặc đang say sưa ngủ
thì từ 4 phiá, tiếng loa gọi
hàng vang như sấm dậy, tiếng trống
thúc quân dồn dập, quân ta hàng hàng lớp lớp hô
vang “xung phong, xung phong” khiến
quân giặc thất kinh hồn vía lên mây chỉ kịp quỳ xuống van lạy đầu
hàng, một số hoảng hốt chống cự lại bị giết tại trận.
Đêm mồng 4 tết, cánh quân “Kỵ” của Đô Đốc Đông bất ngờ tập kích vào cứ điểm Đống Đa của giặc. Trong đêm tối, những con rồng
lửa từ trên trời đổ ập xuống đầu quân giặc, chúng chưa kịp phản ứng gì thì quân ta đã tràn ngập cứ điểm. Quân giặc hốt
hoảng tháo chạy tán loạn,
dẫm đạp lên nhau mà chết tạo
thành từng gò đống chồng
chất xác giặc nên dân gian gọi
tên nơi này là gò Đống Đa. Tướng giặc Sầm
Nghi Đống cùng đường phải
treo cổ lên cành Đa tự vẫn. Cửa ngõ Tây Nam Kinh thành đã
mở toang cho đoàn
kỵ binh tiến như vũ bão vào Thăng Long.
Cùng lúc đó,
đại quân do Hoàng Đế Quang Trung đích
thân chỉ huy ào ạt tấn
công Ngọc Hồi, một cứ điểm quân sự trọng
yếu của giặc. Cứ điểm Ngọc Hồi được xây cất công phu kiên cố và có quân số đông
nhất do Phó tướng Hứa
Thế Hanh chỉ huy để bảo vệ cho đại bản
doanh của Tôn Sĩ Nghị.
Trong tiếng hò reo, quân ta nhất loạt
xung phong, đoàn voi chiến hung hãn xông trận. Hứa Thế Hanh tung đoàn
kỵ binh thiện chiến
nhất ra ngăn chặn
nhưng bị các xạ thủ ngồi trên lưng voi nã
từng loạt pháo vào đoàn kỵ binh giặc khiến
người ngựa tan thây, hàng ngũ giặc
náo loạn, đội hình giặc tan vỡ tức thì, quân giặc hoảng
loạn quay đầu dẫm đạp lên nhau chạy vào trong thành tử thủ. Hàng loạt đạn
pháo từ trong thành bắn ra nhưng
quân ta vẫn tiến
công như vũ bão. Đoàn voi chiến chia thành 2 cánh mở đường cho đội xung kích xông lên. Sáu trăm chiến sĩ cảm tử chia thành 20 toán, cứ 10 người
dao ngắn dắt bên hông khiêng một tấm mộc lớn ghép bằng nhiều tấm ván, bên ngoài bện rơm ướt thành một lớp
dày, phía sau tấm mộc
là 20 chiến sĩ được trang bị “Bạch
khí” “Hỏa hổ,” “Hỏa cầu lưu hoàng” và súng “Điểu Thương” lớp lớp tiến lên, tạo thành một bức tường thành di động từ từ áp sát chân thành. Đại bác, cung nỏ, hỏa mù của giặc bắn ra tới tấp. “Khói tỏa mù trời nhưng vẫn không cản được đoàn quân cảm tử. Khi áp sát
chân thành lũy, các chiến sĩ xung kích nhất loạt bỏ tấm mộc rồi rút dao xông
vào chém giết quân gìặc. Kèn thúc quân, tiếng trống trận Tây Sơn vang lên như sấm dồn chớp giật, hàng hàng lớp lớp quân ta ào ạt xông lên như vũ bão. Tuyến phòng thủ của giặc bị quân ta chọc thủng, quân giặc la hét hoảng loạn tháo chạy tán loạn. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết giặc thù, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối...” Trận
chiến khốc liệt xảy ra từ sáng sớm đến buổi trưa mồng 5 tết, cứ điểm cuối cùng của quân Thanh bị diệt gọn. Tướng giặc Hứa
Thế Hanh, Thượng Duy Thanh bị giết tại trận. Tàn quân tháo chạy vào mũi đột kích của Đô
Đốc Bảo, quân ta dồn giặc
vào vùng Đầm Mực giết chết hàng vạn tên. Sách sử
chép “Mờ sáng ngày mồng 5 tết, Tôn Sĩ Nghị còn đang hoảng hốt khi được tin Đống Đa thất thủ, Sầm Nghi Đống tự vận. Nghị chưa kịp hoàn hồn thì lại nhận được tin cấp báo đồn Ngọc Hồi bị tấn công tan tành. Sợ quá, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc áo giáp vội nhảy lên mình ngựa chưa kịp thắng yên cương rồi phóng như bay về cầu phao chạy thẳng lên hướng Bắc. Thấy Tướng Tổng Chỉ Huy bỏ chạy, các tướng sĩ thi nhau tháo chạy như ong vỡ tổ... tràn ngập cầu phao, dẫm đạp lên nhau chết vô số kể....” Để thoát thân và sợ bị
truy đuổi Tôn Sĩ Nghị đã ra lệnh chặt đứt cầu phao, quân Thanh rơi xuống
sông chết thây ngập cả
dòng sông. Tàn quân Thanh còn lại chạy đến Phượng Nhân thì lại lọt
vào ổ phục kích của Đô
Đốc Lộc chờ sẵn xông ra tiêu diệt không một
tên nào sống sót.
Sử triều
Thanh chép: “Ngày mồng 2, Duy Kỳ báo cáo quân (Nguyễn) Huệ kéo đến, Tôn Sĩ Nghị kinh hoảng phá vòng vây vượt Phú Lương giang. Cầu phao bị đứt, Thế Hanh và Duy Thăng, Triều Long dẫn mấy trăm quân giao chiến ở phía Nam cầu phao, thua trận. Hứa Thế Hanh chỉ huy các tướng vượt qua sông, bị vây trong trận, tận lực giao chiến mà tử trận.”
Trưa mồng 5 tết Kỷ Dậu 1789, Hoàng đế Quang Trung ngồi
trên lưng voi, chiến bào ướt đẫm mồ hôi, đen xạm
khói súng dẫn đầu đoàn quân chiến thắng
tiến vào kinh thành trong tiếng
reo hò hoan mừng khôn xiết của
già trẻ lớn bé thành Thăng Long. Hai dãy
bàn “Hương án” được các bô lão bày dọc hai bên đường
nghinh đón Đại đế Quang Trung và đoàn
quân bách chiến bách thắng
Tây Sơn. Ngày mồng 7 tết, Đại đế Quang Trung tổ chức lễ ăn mừng chiến thắng
vào đúng lễ Hạ Nêu như đã
hứa với ba quân theo truyền thống
của Việt tộc. Tổng kết chiến dịch
diễn ra chưa đầy 5
ngày, đại danh tướng Nguyễn
Huệ đã đánh tan tành 20 vạn quân Thanh xâm lược, một kỳ tích có một không hai của
thiên tài quân sự lỗi lạc không những của
Việt Nam mà cả trong quân sử của thế giới nữa. Đại Đế Quang Trung không những là một
thiên tài quân sự, bách chiến
bách thắng” mà còn ấp ủ
hoài bão thu hồi lãnh thổ xa
xưa của Việt tộc. Sau khi dùng kế sách ngoại
giao mềm mỏng để có thời gian củng
cố quốc phòng, xây dựng một đội quân chủ lực
thiện chiến. Hoàng Đế
Quang Trung không chấp nhận cống người bằng
vàng, cái nợ Liễu Thăng bị chém bay đầu từ thời vua Lê. Vua Thanh Càn Long phải
nhượng bộ, trong bài thơ tặng
vua Quang Trung, Càn Long tỏ ý hổ thẹn về việc các triều vua trước bắt Việt Nam cống “người
vàng.”.
Hoàng Đế
Quang Trung lệnh cho Ngô Thời Nhiệm
làm biểu gửi Tổng Đốc Lưỡng Quảng đòi
lại 7 châu thuộc Hưng
Hóa của nước ta. Khi thấy triều
Thanh làm ngơ chưa chịu giao trả, Quang Trung tức
giận nói với các tướng
lãnh “Được rồi, cứ thư thả cho ta vài năm nữa, ta nuôi vững uy lực, đầy đủ nhuệ khí thì có gì mà sợ chúng...” Đầu năm 1792, Hoàng Đế Quang Trung cử Đại tướng Vũ văn Dũng cầm đầu Sứ bộ sang triều Thanh để cầu hôn công chúa con gái Càn Long, đồng
thời đưa biểu đòi lại đất Lưỡng Quảng gồm 2
tỉnh Quảng Đông
(tên cũ là Việt Đông) và Quảng Tây (Việt Tây) cho Việt tộc. Nhận được
biểu tâu, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng lo sợ nhưng vẫn phải tâu lên Càn Long. Theo gia phả họ Vũ thì Vũ văn Dũng đã bệ kiến Càn Long và vua Càn Long đã
giao cho bộ Lễ nghiên cứu việc gả công chúa cho Quang Trung và đồng ý
cho đất tỉnh Quảng Tây làm của hồi môn. Sự việc mới tiến triển đến đó thì Hoàng Đế Quang Trung đột ngột băng hà. Việc cử một võ tướng cầm đầu sứ bộ sang cầu hôn để nắm vững đường đi nước bước, địa hình chiến lược
mai mốt sẽ tiến đánh Trung Quốc, đồng
thời để Càn Long thấy rõ quyết
tâm đòi lại đất xưa của Việt tộc. Việc cầu
hôn chỉ là cái cớ để chọc giận Càn Long, nếu Càn Long từ chối không giao trả Lưỡng
Quảng thì Hoàng Đế sẽ xuất quân đánh chiếm lại Lưỡng Quảng. Vua Thanh Càn Long hẳn cũng hiểu rõ ý định
của Quang Trung nhưng cũng
biết khả năng quân sự của Quang Trung nên đành chấp nhận gả công chúa và trả lại tỉnh Quảng Tây làm quà sính lễ rồi tính sau.
Hoàng
Đế Quang Trung không chỉ là một
thiên tài quân sự mà còn là một vị vua đức độ,
thương dân và trân trọng bảo lưu truyền thống
văn hiến của Việt tộc. Trong lịch sử Việt, sau Hồ Quý Ly là Hoàng Đế Quang Trung đã ban chiếu phải
dùng chữ Nôm trong việc triều
chính, thi cử để phục hưng văn hóa Việt... Thế nhưng
bất hạnh thay cho dân tộc, thù trong chưa dẹp, mộng lớn chưa thành thì người anh hùng dân tộc, một đại danh tướng lỗi lạc chưa một lần thất bại đã đột ngột qua đời ở tuổi bốn mươi vào tháng 9 năm 1792, để lại sự mất mát lớn lao cho cả một dân tộc. Bách Việt Từ Đường Tộc Phả đã ghi lại lời
nói của Hoàng Đế Quang Trung với
các bô lão làng Vân Nội như
sau:
“Chúng ta đều do Tổ Tiên sinh ra, không cứ là trai gái
già trẻ, không cứ là chi tộc nào, dòng họ nào. Mọi người đều là ”CON RỒNG CHÁU TIÊN,” đều từ một bào thai của mẹ Âu nên tất cả từ một mẹ sinh ra các
ngành các chi mà thôi. Cành cây lớn muôn lá, gốc vốn ở rễ. Nước có nghìn dòng sông, muôn ngọn suối, vốn có gốc từ một ngọn nguồn. Cảnh vật còn như vậy, huống chi là con
người chúng ta. Con người sinh ra đời, đời đời nối tiếp về sau, đều do các người đời trước nuôi nấng dìu dắt vậy.
Ngưỡng mộ và tưởng nhớ Tổ Tiên, chúng ta
hãy lấy việc siêng năng mà bồi đắp cho gốc rễ. Lấy sự cần kiệm làm răn rồi tu nhân tích đức, giàu lòng thương người hơn là chê bai ghen ghét người. Là con cháu
thì chúng ta phải nối tiếp truyền thống của Tổ Tiên, chứ lẽ nào con cháu
mà lại không suy nghĩ về ý nghĩa thâm trầm cao đẹp nói trên hay sao?
Tượng Đài Hoàng Đế Quang Trung
No comments:
Post a Comment