Tổng Kết Cuộc Chiến Tranh Việt Nam
Phạm Trần Anh
Phạm Trần Anh
LỜI GIỚI THIỆU
Một câu hỏi đã ám ảnh tôi suốt gần 40 năm qua là “Tại sao
dòng sử mệnh của người dân Việt lại trầm thống và bi thương triền miên chồng
chất như thế này?! Biết bao thế hệ Việt Nam đã xuất dương du học để biết Người”,
nhưng “Biết người mà không biết ta” thì cái biết đó vẫn chưa thế nào đủ được
nên biết chỉ để biết mà thôi. Xưa Lý Đông A thường nói “Lần giở đáy, thẩm thấu
suốt đáy tầng của dân tộc”. Sức sống ngấm ngầm của dân tộc luôn luôn nằm trong
“Đáy Hồn Dân Tộc”. Phần đông người Việt Nam chúng ta không tự hiểu được mình
nên, nói như Krisnamurti, khi chúng ta không tự hiểu mình thì ta đã suy nghĩ
không có nền tảng. Đó là lời dạy của minh triết. Muốn hiểu được mình thì phải
hiểu được “Dòng Đạo Lý Nguyên thủy của Thời Quốc Tổ Hùng Vương Lập Quốc”
cách đây hàng ngàn năm như quyển “Thánh Kinh” của dân tộc Việt đã soi sáng và
hướng dẫn lịch sử của giống nòi từ bao ngàn năm qua.
Ngày nay, như một nhân duyên tôi được đọc tác phẩm cổ sử của
sử gia Phạm Trần Anh, tôi thấy được “Cội nguồn của Văn minh Việt”, nền
móng căn bản dựng nước của Tổ Tiên và Tiền Nhân. Cội nguồn này đã bị khống chế
và đè bẹp bởi “Văn minh Bái vật của Đại Hán”. Dòng đạo lý nguyên thủy của Việt
tộc là thờ trời thay vì thờ người như văn minh của du mục phương Bắc.Trật tự
của xã hội Việt Nam là trật tự của thiên nhiên. Sau gần một ngàn năm bị Hán tộc
thống trị, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đã đem cái trật tự “Quân thần” để Hán
hóa dân tộc ta bằng hình thức nô dịch văn hóa. Sự xích hoá và nô dịch văn hóa
của Hán tộc đã làm cho sinh mệnh bản thể của văn minh, văn hóa Việt bị vùi dập,
lu mờ hàng ngàn năm qua. Đây là sự mất mát khủng khiếp đã làm cho hồn dân tộc
Việt lao đao lận đận mãi cho tới bây giờ. Lẽ trời đất thịnh suy, suy thịnh cùng
với những thăng trầm hưng phế của lịch sử. Tôi đã đọc “Việt Nam Nước tôi” suốt
một đêm hết gần 600 trang mà lòng mình cảm thấy chứa chan hạnh phúc. Bao nhiêu
câu hỏi đặt ra mà tôi ấm ức mãi vì không tìm được lý giải khiến tôi canh cánh
mãi bên lòng đã được trình bày cặn kẽ sáng tỏ. Lần đầu tiên tôi được đọc một
quyển sách về lịch sử Việt Nam với những lý lẽ thuyết phục nhất về nguồn cội
dân tộc Việt Nam nên hôm nay, tôi muốn chia xẻ với tất cả những người Việt nam
yêu nước thương nòi về nguồn cội dân tộc.
Bước sang thiên niên kỷ thứ Ba của nhân loại, cơ duyên vận
nước sắp đổi thay nên sử gia Phạm Trần Anh đã được điểm hóa để viết những tác
phẩm để phục hồi sự thật khách quan của lịch sử, giúp cho chúng ta nhìn lại “Khuôn
mặt Ngàn đời của Nòi giống Việt”, cũng như “Cái bản lai Diện mục”
của cá nhân mình nổi trôi theo vận mệnh của cả một dân tộc. Chính vì vậy, tác
phẩm của sử gia Phạm Trần Anh được xem như một “Quyển sách Gối đầu giường”, một
cẩm nang xem như kim chỉ nam trong hành trình của dân tộc mà một người Việt Nam
yêu nước thương nòi, nhất là các bạn trẻ thanh niên sinh viên phải tìm hiểu,
nghiền ngẫm để làm hành trang trên con đường cứu quốc và kiến quốc để “Hưng
quốc” Việt Nam.
Điều tôi tâm đắc nhất là ông Phạm Trần Anh là một người yêu
nước nồng nàn, một chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ tự do dám hy sinh cả tính
mạng mình cho dân tộc. Tấm lòng yêu nước đến cùng cực của ông còn thể hiện
trong những tác phẩm lịch sử của ông. Thật vậy, sử gia Phạm Trần Anh đã khẳng
định lập trường rõ rệt là “chỉ dùng chữ nhà cho những triều đại của Việt Nam vì
nhà là cái gì thân thiết nhất, gần gũi nhất, cái gì của mình nên không thể dùng
chữ nhà cho các triều đại Tầu Hán như nhà Hán, nhà Minh, nhà Thanh mà các sử
gia trước đây thường dùng bừa bãi lẫn lộn”. Điều này chứng tỏ rằng người tù bất
khuất Phạm Trần Anh không chỉ là một chiến sĩ cách mạng đã đứng lên đấu tranh
lật đổ bạo quyền Cộng sản mà ông qủa thực là một nhà cách mạng ngay trong lĩnh vực
lịch sử. Thật vậy, do ảnh hưởng vào sách sử cũng như học vị nên từ trước tới
nay, chưa một sử gia nào dám đặt lại vấn đề, chưa dám xét lại những gì ghi chép
trong sách sử dù có thấy một vài điểm vô lý. Đối với lĩnh vực sử học, việc làm
này xem như “Phạm húy”, liều lĩnh dại dột dám phản bác chống lại những “Khuôn
vàng thước ngọc” của tiền nhân từ hàng nghìn năm nay và sử gia Phạm Trần Anh đã
làm điều đó hết sức thuyết phục để “phục hồi sự thật lịch sử, Trả lại những gì
của lịch sử cho lịch sử” đã làm cho mọi người phải đặt lại vấn đề, gạt bỏ nhận
định sai lầm từ trước đến nay về lịch sử của dân tộc Việt.
1. Thứ nhất là sử gia Phạm Trần Anh đã phục hồi sự thật lịch
sử về “Cái gọi là văn minh Trung Quốc” chính là nền văn minh của Việt tộc. Học
giả thời danh J Needham, một nhà Trung Hoa Học người đã nói: “Sự thật bị che
phủ hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa
khiến ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật .!!!”. Sử
gia Phạm Trần Anh viết: “Tứ Thư Ngũ Kinh không phải của Hán tộc mà chính là
của Việt tộc. Sách Trang Tử kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử. Khổng Tử nói: “ Khâu
này chỉ khảo cứu sâu 6 kinh là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu”. Như vậy
thời Khổng Tử Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu đã có từ lâu và được gọi là
“Kinh”. Chính bộ “Trung Quốc Văn học Sử” do “Bắc Kinh đại học, Trung văn
hệ” biên soạn viết rõ ràng là “Tên gọi Thi Kinh là do Hán Nho thêm vào”. Sử gia
chính thống Hán tộc Tư Mã Thiên viết “ Xưa kia, Thi vốn có hơn 3 ngàn bài, đến
Khổng Tử chỉ lấy 305 bài hợp với việc thực thi lễ nghĩa, đều phổ nhạc, cố tìm
âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng”. Cổ văn Thượng Thư do Lỗ Cung Công con
của Lỗ Cảnh Đế tìm thấy khi phá ngôi nhà cũ của Khổng Tử để xây cất lại lớn
hơn. Trong bức vách nhà có những sách cổ thời Ngu, Hạ, Thương, Chu … Luận Ngữ,
Hiếu Kinh đều viết bằng chữ cổ gọi là Khoa Đẩu tự hình con nòng nọc. Sách Hán
Thư, Thiên văn Nghệ chí chép “Cổ văn Thượng Thư được tìm thấy trong vách tường
nhà Khổng Tử. Khổng An Quốc, hậu duệ của Khổng Tử trước đây đã biết bộ sách này
có 29 thiên do Phục Sinh truyền, chưa kể Thái Thệ còn thừa ra 16 thiên, tính ra
45 quyển, 58 thiên không kể bài tựa … nay lại được thêm 16 quyển”. “Như vậy, rõ
ràng là Ngũ Kinh có trước thời Khổng Tử và được viết bằng lối chữ “Khoa Đẩu” là
lối chữ viết theo hình dáng của con nòng nọc của Việt tộc thời xa xưa. Lối chữ
“Nòng Nọc” của người Việt cổ cùng với nền văn hóa Hòa Bình đã lan truyền khắp
Trung Đông, góp phần tạo nên những nền văn minh cổ đại khác của nhân loại”.
Thực tế lịch sử này được Hội nghị Quốc tế các nhà Trung Hoa học trên khắp thế
giới kể cả Trung Quốc và Đài Loan hội thảo về “Nguồn gốc nền văn minh Trung
Quốc” tại đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 đã thừa nhận là Di Việt làm chủ
Trung nguyên trước Hán tộc và các triều đại Thương, Chu tiếp thu văn hóa của Di
Việt ở phương Nam. Theo Công trình mới nhất “Nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa”,
tổng kết trong Hội nghị Quốc tế các nhà Trung Hoa học trên toàn thế giới tổ
chức tại đại học Berkerley California Hoa Kỳ năm 1978, thì “Không thể tìm ra đủ
dấu vết chứng cớ để phân biệt giữa Hán tộc và các tộc người không phải là Tàu
trên phương diện lịch sử. Giới nghiên cứu phải tìm về dấu tích văn hoá mà về
văn hoá thì Hán tộc chịu ảnh hưởng của Di Việt”. Chính “Người thầy Muôn đời”
của Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng tính ưu việt của nền văn minh rực rỡ của
Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau: “Độ
luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của
phương Nam, người quân tử ở đấy ..! Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến
chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó…” và một vị
vua của Hán tộc, Hán Hiến Đế cũng đã phải thừa nhận: “Giao Chỉ là đất văn hiến,
núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.
Chính vì vậy, sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên cũng đã phải thừa
nhận một sự thực là “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức
với muôn dân vậy ..!”. Ngày nay, sử gia hàng đầu của Trung Quốc là Trương Quang
Trực (Chang Kwang Chih), đã phải thừa nhận một sự thực lịch sử là tuy Trung
Quốc là một quốc gia lớn với một nền văn hoá lớn nhưng nó đã phải thâu nhập
tinh hoa của nhiều nền văn hoá hoá hợp lại: “Những nền văn hoá địa phương thời
tiền sử, sau khi thống nhất đã trở thành một bộ phận của văn hoá Trung Quốc.
Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ là phần nhỏ nhưng sau khi triều Tần thống
nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy là dân tộc Trung Hoa”.
2. Thứ hai là trong lịch sử chưa một ai dám phê bình Tư Mã
Thiên, sử gia chính thống của Hán tộc, một ngôi sao Bắc Đẩu trong lịch sử
phương Đông nói riêng và cả nhân loại nói chung. Sử gia Phạm Trần Anh là người
đầu tiên đã chứng minh một cách khoa học nhất, thuyết phục nhất rằng nhân vật
Hoàng Đế mà sử gia Tư Mã Thiên viết là Tổ Tiên của nhân dân Trung Quốc, người
khai mở lịch sử Trung Quốc là không đúng sự thật. Việt Nam Thời Lập Quốc viết:
“Theo Từ Hải thì Hoàng Đế, Xi Vưu đều là những thị tộc trưởng nên sở dĩ có
chiến tranh là để giành ngôi vị thủ lĩnh mà thôi. Gần đây, học giả Eberhard một
nhà Trung Hoa học nổi tiếng đã công bố một sự thật là vào khoảng năm 450 TDL,
một người viết sử đã đưa Hoàng Đế nguyên là một vị thần nhỏ trong địa phận Sơn
Đông lên làm vị vua đầu tiên của Hán tộc. Nếu Hoàng Đế là một nhân vật có thật
thì Đế Hoàng ở Sơn Đông phải là người Việt cổ, hậu duệ của Thần Nông nhưng
thuộc dòng Thần Nông phương Bắc. Sơn Đông là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trãi của
Việt tộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di nên vị thần Đế Hoàng chính là
người Việt cổ nhưng sử gia Tư Mã Thiên nhận là thủy tổ của người Trung Quốc
(Hán tộc) nên viết Đế Hoàng theo cú pháp Hán tự là Hoàng Đế. Mạnh Tử xác nhận
vua Thuấn là người Đông Di và từ điển Từ Hải cũng xác định là tổ tiên và con
cháu Thuấn đều được phong ở đất Đông Di. Thế mà Tư Mã Thiên, sử quan chính
thống Đại Hán lại bao biện cho rằng Thuấn bị xem là người Đông Di vì thói quen
hồi đó gọi là như thế. Luận điệu này không có tính cách thuyết phục. Tại sao
lại có thói quen gọi một người đồng chủng nhất là một vị vua là rợ Đông Di?
Chính bản thân Tư Mã Thiên chỉ can gián vua mà đã bị tội “Cung Hình” phải cắt
bỏ bộ phận sinh dục huống chi gọi vua là man di mọi rợ, chắc chắn phải bị tru
di cửu tộc!”.
3. Thứ ba, không chỉ Hoàng Đế tức Đế Hoàng mà cả “Tam Hoàng
Ngũ Đế” ghi chép trong lịch sử Trung Quốc thực ra chỉ có nhị hoàng là Phục Hy,
Thần Nông mà truyền thuyết khởi nguyên dân tộc kể lại là dòng Thần Nông phương
Bắc như Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng, Đế Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu,
Đế Thuấn, Đế Vũ lập ra nhà Hạ trước đây sách sử ghi là của Trung Quốc mà sự
thật là của Việt tộc. Việt Nam Thời Lập Quốc viết: “Theo các nhà Tiền Sử học
thì Malayo-Viets tức Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6
ngàn năm hoàn toàn phù hợp với niên đại trong huyền sử ghi rằng họ Phục Hy làm
vua từ năm 4.480 đến 3.220TDL và họ Thần Nông làm vua từ năm 3.220TDL đến năm
3.080TDL. Thời Xuân Thu là thời kỳ phục hưng của Việt tộc với sự trổi dậy của
các quốc gia Bách Việt, hết Ngô đến Việt xưng “Bá” rồi tới Sở lãnh đạo liên
minh 6 nước trung nguyên chống Tần giành quyền thống lĩnh trung nguyên. Chính
vì vậy, thời kỳ này mới xuất hiện các nhân vật huyền sử Việt từ Phục Hy, Nữ Oa,
Thần Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế) tới Đế Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn
và Đế Đại Vũ nhà Hạ của Việt tộc. Chính Khổng Tử, người được xem là bậc thầy
muôn đời của Trung quốc cũng biết rõ điều này nên chưa hề nhắc tới nhân vật
Hoàng Đế của Trung Quốc mặc dù Khổng Tử đã xác nhận rõ là theo phò triều Chu.
Trong các tác phẩm Cổ sử Khảo, Tam ngũ Lịch, Đông Kỷ, Đế vương Thế kỷ thì tất
cả đều khẳng định rằng Thần Nông có liên quan huyết thống với Việt tộc. Nói
cách khác, Việt tộc chính là hậu duệ của Thần Nông. Cổ thư Trung quốc chép đời
Nghiêu Thuấn đánh dẹp họ Cộng Công của Hán tộc vì đã tranh ngôi với Chúc Dung
là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông. Vua các nước Trịnh và hoàng tộc một số nước ở
bán đảo Sơn Đông như Tề, Lỗ, Trần đều nhận họ là con cháu Thần Thái Sơn và lấy
họ Khương của Thần Nông. Như vậy, Thần Nông họ Khương định cư ở đất Khương (Tây
Khương) = Mon-Khmer đúng như truyền thuyết kể lại là cháu ba đời của Thần Nông
là Đế Minh đi tuần du phương Nam …
4. Thứ tư, sử gia Phạm Trần Anh đã dẫn chứng công trình khảo
cổ học để chứng minh dòng Thần Nông phương Bắc gồm Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng,
Hoàng Đế (Đế Hoàng), Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Hạ Vũ nhà Hạ là của Việt
tộc. Thật vậy, Lịch sử vẫn là lịch sử trên nguồn thư tịch, thế nhưng một khi
những sự kiện lịch sử này được các công trình khảo cổ chứng minh qua những di
chỉ, hiện vật tại nơi đã xảy ra sự kiện này cũng như thời điểm niên đại khảo cổ
được xác định bằng phương pháp đồng vị C 14 thì sự kiện này trở nên hiện thực
lịch sử sống động, có giá trị thuyết phục mà không một luận cứ nào có thể phản
bác được. Với phương pháp phóng xạ C14, các nhà khảo cổ đã xác minh được những
người Ngưỡng Thiều, Long Sơn đa số thuộc chủng phương Nam Mongoloid (chúng tôi
gọi là Malayoviets=Bách Việt mới chính xác) như người miền Nam Trung Hoa hiện
nay và cũng không khác những người Việt Nam và cả Nam Dương. Chứng cứ khảo cổ
này đã phục hồi sự thật lịch sử là nhà Hạ trong lịch sử Trung Hoa là của Việt
tộc đã định cư ở vùng sông Bộc mà truyền thuyết kể là ngành Thần Nông phương
Bắc đã thành lập các triều đại Đế Hoàng, Đế Nghiêu, Đế Thuấn và đế Hạ Vũ nhà
Hạ.
5. Thứ năm, sử gia Phạm Trần Anh là người đầu tiên lý giải
truyền thuyết khởi nguyên dân tộc một cách rõ ràng nhất, đầy đủ nhất, trong
sáng và thuyết phục nhất chứ không còn hoang đường huyền hoặc như chúng ta vẫn
hiểu từ trước đến giờ. Thế là truyền thuyết từ chỗ “u u minh minh” đã trở thành
“minh minh” chứ không còn “u u minh minh” như trước nữa. “Với tất cả tấm lòng
và thái độ trân trọng nghiêm chỉnh và với phương pháp nghiên cứu huyền thoại để
tự đặt mình vào hoàn cảnh lịch sử thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong
huyền thoại sẽ gợi mở sáng tỏ, minh nhiên lý giải những gì ẩn tàng trong bức
thông điệp “Huyền Thoại” của tiền nhân gửi gấm cho thế hệ chúng ta. Ý niệm
trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem vật linh biểu trưng của Việt tộc là
tộc người thờ chim là một con vật đứng đầu trong tứ linh: nhất điểu, nhì ngư,
tam xà, tứ tượng. Vì vậy, việc Mẹ Âu Cơ mà vật tổ biểu trưng là chim thì việc
mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người con trai trên bình diện tâm linh là
bình thường không có gì đáng ngạc nhiên cả…”.
6. Sử gia Phạm Trần Anh đã chứng minh niên đại của truyền
thuyết về Thần Nông vào thiên niên kỷ thứ IV TDL hoàn toàn phù hợp với niên đại
khảo cổ và kết quả đo chỉ số sọ của các nhà Khảo Tiền Sử về chủng
Hoabinhian-Protoviets => Indonesian (Malaynesian=>Malayo-Viets = Bách
Việt Bai-Yue). Theo các nhà Tiền Sử học thì Malayo-Viets tức Bách Việt đã định
cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6 ngàn năm. Công trình nghiên cứu sử học
của học giả Shi Shi người Trung Quốc thì người U Việt (GU-YUE) đã làm chủ biển
cả cách đây hơn 7 ngàn năm. Đặc biệt, Truyền thuyết kể lại rằng bố Lạc dẫn 50
con về “Thủy Phủ”, trước đây chúng ta cho là huyền hoặc thế nhưng địa danh thủy
phủ đã được 2 học gỉa người Pháp là P Gouron và J Loubet tìm ra, đó chính là
cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên được in trên bản đồ Atlas 1949. Sự
thật lịch sử này đã được chính nguồn sách sử cổ Trung Hoa xác nhận khi chép về
cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch sử của huyền thoại mà ta cứ
tưởng là huyền hoặc hoang đường. Truyền thuyết khởi nguyên dân tộc đã được
chính thư tịch cổ Trung Quốc thừa nhận sự thành lập của các quốc gia thời Chiến
quốc mà họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt (còn gọi là
Vu Việt) của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà lên tới miền Giang
Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi Dương Việt mà
kinh đô là Cối Kê. Lý Tế Xuyên đã viết “Việt Điện U Linh” về nước Việt cổ xưa.
Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Điền Việt ở Vân Nam, Quì Việt ở
Tứ Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc
Việt ở Quảng Tây và Bắc VN. Chính sách sử cổ Trung Quốc ghi rõ cộng đồng Bách
Việt cư trú khắp trung nguyên, thế mà sử quan triều Thanh Tiền Hy Tộ đã bóp méo
ý nghĩa và sửa lại niên hiệu thành lập nước Văn Lang như sau: “Đến đời Chu
Trang Vương (696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang.
Phong tục thuần hậu, chất phác. Chính sự dung lối thắt nút. Truyền được 18 đời
đều gọi là Hùng Vương …”.
Trước những sự thật của lịch sử, Trung Quốc đã phải xác nhận
là nền văn hoá của họ là do hàng trăm dân tộc góp phần tạo dựng nhưng văn hoá
Hán ở vùng Tây Bắc là chủ thể. Thế nhưng chính học giả Trung Quốc Wang Kuo Wei
lại cho rằng nơi phát nguyên văn hoá Tàu là ở miền Đông Bắc tức vùng Sơn Đông
của Lạc bộ Trãi chứ không phải ở miền Tây Bắc (Thiểm tây) như quan niệm sai lầm
từ trước đến nay. Thế mà các nhà sử học Mác Xít đã viết sử rập khuôn sử quan
triều Thanh theo nghị quyết của đảng CSVN về sự thành lập nước Văn Lang trong
bộ Lịch sử Việt Nam của Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam như sau: “Sự ra đời của
nhà nước Văn Lang đầu tiên của nước ta đời Hùng Vương và Âu Lạc đời An Dương
Vương vào giai đoạn Đông Sơn trong thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên… Căn
cứ theo 15 bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào quá trình chuyển hoá lịch
sử nước Văn lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời An Dương Vương, rồi đến 2
quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có thể xác định địa bàn
của nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta ngày nay và
một phần phía Nam tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc”. Các nhà sử học Mác
Xít thể hiện quan điểm của đảng CSVN đã sao chép nguyên văn những xuyên tạc,
kéo lùi niên đại thành lập Văn Lang cũng như xác nhận lãnh thổ của Văn Lang chỉ
bao gồm phần lãnh thổ VN hiện nay và 1 phầm phía Nam tỉnh Quảng Tây TQ chính là
một hành động bán nước, phản bội lại công lao của vua Hùng và xương máu của
biết bao thế hệ tiền nhân. Việc sửa đổi lịch sử để hợp thức hóa sự xâm lăng của
Hán tộc là một tội ác mà “Thần Người đều căm hận, Trời Đất chẳng dung tha” của
tập đoàn Việt gian bán nước, tội đồ muôn đời của dân tộc.
7. Cuối cùng, sử gia Phạm Trần Anh đã dẫn chứng một sự thật
lịch sử mới được khoa học xác nhận đã làm đảo lộn những giả thuyết nhận định từ
xưa tới nay về Nguồn gốc tộc Việt. Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về phân
tích cấu trúc di truyền DNA của Việt tộc đã xác định một lần nữa là Việt tộc là
một đại chủng và hoàn toàn khác biệt với Hán tộc làm sáng tỏ vấn nan khúc mắc
từ ngàn xưa. Tôi xin chân thành cám ơn tất cả quý vị yêu quý lịch sử Việt Nam
đã quan tâm tới tiền đồ của dân tộc đang cầm trong tay tác phẩm Lược Sử Việt
Nam, một bộ Lược sử Việt Nam dày 730 trang với những chứng cứ khoa học nhất,
thuyết phục nhất từ thời Lập Quốc cho đến ngày nay đã giúp tất cả người Việt
Nam chúng ta hiểu rõ về ngọn nguồn gốc tích của mình cùng những sự kiện lịch sử
quyết định vận mạng của dân tộc. Tôi cũng xin cám ơn sử gia Phạm Trần Anh đã
dày công nghiên cứu để hôm nay chúng ta có một bộ sử đầy đủ nhất, hữu ích nhất
cho thế hệ con em Việt Nam chúng ta.
Nguyễn Anh Tuấn
No comments:
Post a Comment