Sunday, March 19, 2017
Thầy Thích Thiện Minh và chủ trương biểu tình toàn diện
Posted by adminbasam on
18/03/2017
Trần Phong Vũ
18-3-2017
Chân dung Thượng Tọa
Thích Thiện Minh. Nguồn: internet
Một người bạn vừa gửi cho nghe nội dung Lời phát biểu của Thượng
Tọa Thích Thiện Minh trong cuộc biểu tình của đồng hương định cư tại Cộng Hòa
Liên Bang Đức.
Mở đầu, vị Tăng sĩ từng bị chế độ cộng sản Hà Nội bỏ tù trong
suốt 26 năm nói:
“Từ Việt Nam, tôi Thượng Tọa Thích Thiện Minh được tin Ban Chấp
Hành Liên Hội người Việt tị nạn tại Cộng Hòa Liên Bang Đức sẽ tổ chức biểu tình
lúc 10 giờ đến 13 giờ ngày 5-3-2017 nhằm hưởng ứng lời kêu gọi Tổng Biểu Tình
bất bạo động của Linh Mục Nguyễn Văn Lý, tôi vô cùng phấn khích và xúc cảm khi
được mời phát biểu đôi lời qua đường dây viễn liên.”
Theo Thầy Thích Thiện Minh thì tổ quốc Việt Nam là của chung mọi người Việt
Nam, không riêng một mình ai. Vì thế khi đất nước lâm nguy, đe dọa tới sự sống
còn của dân tộc khiến hàng triệu đồng bào lâm cảnh lầm than thống khổ thì tất
cả mọi người, bất kể giai cấp, thành phần Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh –kể cả Tu sĩ,
Tăng sĩ- đều có trách nhiệm thiêng liêng phải đứng lên sát cánh cùng nhau tranh
đấu bào vệ quê hương.
Đề cập hệ quả của hành vi bán nước “cõng rắn cắn gà nhà” của
đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, Thượng Tọa Thích Thiện Minh nói:
“Bao nhiêu năm qua, dưới sự cầm quyền của đảng cộng sản Việt
Nam, đất nước chúng ta đã đã bị đẩy dần đến cho diệt vọng. Họa Hán tộc phương
Bắc tràn ngập khắp nơi, từ vùng trời vùng biển xa xăm đến đất liền, từ tinh
thần đến vật chất, từ văn hóa đến tín ngưỡng đã bị tha hóa. Trong khi môi
trường thiên nhiên bị ô nhiễm nghiêm trọng. Sự sống của người dân ngày nay đang
bị đe dọa chết dần chết mòn vì từ thực phẩm đến thuốc men đều nhiễm độc… dẫn
tới nguy cơ diệt chủng! Bọn mãi quốc cầu vinh cúi mình cam tâm làm nô lệ cho
ngoại bang.”
Từ những nhận định ấy, Thượng Tọa Thích Thiện Minh mạnh mẽ lên
tiếng khích lệ và tán dương cuộc biểu tình của đồng bào Việt Nam tị nạn tại
Cộng Hòa Liên Bang Đức do Liên Hội Người Việt nơi đây tổ chức để đáp lại sáng
kiến của: “Linh mục Nguyễn Văn Lý sau khi ra tù đã dõng dạc đứng lên
cất tiếng kêu gọi Tổng Biểu Tình toàn quốc, liên kết trong ngoài để biểu dương
yêu cách và sức mạnh của toàn dân”.
Đôi nét về cựu TNLT Thích Thiện Minh
Thượng tọa Thích Thiện Minh, thế danh Huỳnh Văn Ba, sinh ngày
29/8/1955 tại xã Vĩnh Lợi, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu trong một gia đình có
7 anh chị em. Sau năm 75, vì không chấp chận chế độ cộng sản do miền Bắc áp đặt
trên nhân dân miền Nam, ngài quyết liệt chống lại. Năm 1976, ngôi chùa Vĩnh
Bình do Thượng tọa trụ trì ở Bạc Liêu bị nhà cầm quyền cộng sản chiếm dụng
làm nhà kho, sau đó ủi sập chùa để xây chợ. Thượng Tọa bị chế độ kết hai án
chung thân vào những năm 1979 -1986 vì lý do tham gia Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất vận động cho tự do tôn giáo đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt
pháp lý cho Giáo hội.
Thượng Tọa bị bắt vào năm 1979. Năm 2005, nhờ phản ứng của đồng
bào trong ngoài nước và sự can thiệp của các tổ chức nhân quyền quốc tế, Hà Nội
phải trả tự do cho ngài sau 26 năm bị tù đày gian khổ. Sau khi ra tù. Thượng
Tọa quyết định trụ lại quốc nội. Cùng với Linh mục Phan Văn Lợi ngài vận động
thành lập Hội cựu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo để tiếp tục lên tiếng cho quyền
tự do, dân chủ của người dân, nhất là quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận.
Ngày 09-01 năm 2016 Thượng Tọa được tổ chức Trần Văn Bá ở Paris, Pháp quốc trao
giải thưởng Trần Văn Bá. Ngoài ra Thượng Tọa cũng được Mạng Lưới Nhân Quyền
Việt Nam ở Mỹ trao giải nhân quyền cùng với Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và
bán nguyệt san Tự do Ngôn Luận năm 2008. Ngài đã viết cuốn hồi ký mang tiêu đề
“Hai Mươi Sán Năm Lưu Đày” ấn hành ở hải ngoại. Trong bài viết giới thiệu cuốn
hồi ký này với quý độc giả trong các cộng đồng người Việt tị nạn, ông Việt Hải
đã hết lời ca ngợi tinh thần và ý chí tác giả. Ông viết:
“Cuốn sách ‘Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày’ là một bản cáo trạng nói
đến tội ác của chế độ CSVN trước lương tâm nhân loại. Người CS áp dụng chủ
thuyết Tam Vô, mà trong đó, Vô Tôn Giáo, yếu tố thứ ba đã ảnh hưởng trực tiếp
đến tác giả… Thượng tọa Thích Thiện Minh. Tác phẩm… trình bày những án tù cực
hình, dã man mà người tu sĩ bất khuất chịu đựng. Ông mất ngôi chùa nơi thờ
phượng, hành đạo, ông mất quê hương trong 26 năm lưu đày xa xứ, ông mất quyền
làm người với nhân vị một nhà tu hành. Xin hãy lắng nghe tiếng lòng của ngài
Thiện Minh để thấy rằng đức tính bi trí dũng của người con Phật vẫn sáng ngời
trước những đàn áp của bạo lực.
… Tôi như bị thôi miên khi nhìn vào cái đề tựa. Hai mươi sáu năm
là một khoảng thời gian quá dài, thời gian mà vị tu sĩ chịu đựng bao nhiêu nỗi
nhục nhằn bị tra tấn, những cực hình đè nặng lên tinh thần và thể xác. Tôi đọc
12 chương sách hay xuyên suốt 270 trang giấy, mà mỗi chương chuyên chở tiếng
lòng bất khuất của vị tù nhân lương tâm đáng kính này”
TT muốn nói gì khi lên tiếng với đồng bào tị nạn tại Đức?
Khi ngỏ lời với tập thể người Việt tị nạn cộng sản tại Đức quốc
trong cuộc biểu tình bày tỏ tình liên đới với các cuộc biểu tình toàn diện khởi
đầu từ Chúa Nhật 05-03 ở trong nước, người tù lương tâm Thích Thiện Minh nhắm
vào ba điểm.
Trước hết, ngài công khai bày tỏ thái độ tán đồng quan điểm, lập
trường của LM Nguyễn Văn Lý khi lên tiếng kêu gọi đồng bào trong ngoài nước tổ
chức những cuộc biểu tình ôn hòa, tuyệt đối bất bạo động liên tục toàn dân,
toàn diện nhằm tố cáo mưu toan xăm lược Việt Nam của kẻ thù phương Bắc với sự
tiếp tay của CSVN. (Những cuộc biểu tình tiếp theo vào các Chúa Nhật 12 và 19-3
của đồng bào ba miền Bắc Trung Nam còn nhắm vào mục tiêu vạch trần tội ác hủy
hoại môi trưởng biển của công ty gang thép Formosa, lớn tiếng dòi hòi nhà cầm
quyền CSVN phải trục xuất vĩnh viễn Formosa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.)
Điểm thứ hai, với kinh nghiệm ngót ba thập niên bị giam cầm đày
đọa trong nhà tù cộng sản, Thượng Tọa đã nhìn thấy sự tàn ác của CSVN cùng với
bộ mặt bán nước của Hà Nội. Vì thế ngoài những chia sẻ về sự tàn độc của bọn
đầu sỏ Ba Đình, ngài còn nhắc nhở đồng bào tị nạn ở Cộng Hòa Liên bang Đức –và
cũng cho tất cả những nạn nhân cộng sản tại Hoa kỳ và tất cả các quốc gia trên
thế giới- về những tội ác diệt chủng mà Trung Cộng đang nhắm vào 94 triệu đồng
bào ta. Vì thế, ngài nói:
“Họa Hán tộc phương Bắc tràn ngập khắp nơi, từ vùng trời vùng
biển xa xăm đến đất liền, từ tinh thần đến vật chất, từ văn hóa đến tín ngưỡng
đã bị tha hóa. Trong khi môi trường thiên nhiên bị ô nhiễm nghiêm trọng. Sự
sống của người dân ngày nay đang bị đe dọa chết dần chết mòn vì từ thực phẩm
đến thuốc men đều nhiễm độc… dẫn tới nguy cơ diệt chủng!”
Cuối cùng, những lời phát biểu đanh thép của Thượng Tọa Thích
Thiện minh trước cộng đồng người Việt tị nạn ở Đức quốc còn mang giá trị một
thông điệp khẩn gửi tới từng đồng hương đồng đạo bao gổm hàng chục triệu Phật
tử trong và ngoài nước trước nguy cơ cận kề: đất nước có thể trở thành một quận
lỵ của Tàu cộng!
Những nỗi trăn trở của bà con Phật tử
Sau ngày thảm họa cá chết xảy ra, cá nhân tôi nhận được khá
nhiều bài viết của những Phật tử được công bố trên các trang mạng Dân Làm Báo,
Anh Ba Sàm v.v…tỏ ý than phiền vì sự thiếu vắng tiếng nói của các nhà lãnh đạo
trong GHPG. Trước hết ngày 11-8 năm rồi, tôi đọc được bài viết với tựa đề
“Không thấy Phật Giáo ở đâu trong lòng dân tộc?” trên mạng Anh Ba Sàm của tác
giả Trương Nhân Tuấn mà theo anh để tránh ngộ nhận đã cho biết anh xuất thân
trong một gia đình nhiều đời theo Phật, dòng họ không những siêng đi chùa mà
còn bỏ công của góp phần xây dựng chùa chiền.
Tác giả post kèm bài viết bìa một DVD kịch bản mang tên “Phật
Giáo Trong Lòng Dân Tộc” phía trên ghi tên nghệ sĩ Kim Cương và HT Thích Thanh
Từ. Trong bài tác giả họ Trương tỏ dấu buồn phiền trước nạn nước và tình trạng
tha hóa trong đạo mà không thấy giới lãnh đạo Phật giáo lên tiếng. Một đoạn
trong bài, ông viết:
“Ông Hồ không biết khi nào được phong thành “bồ tát”, tượng được
đưa vào chùa, ngự chỉ ở dưới Phật. Đây là gì nếu không phải là một sự phỉ báng
vào giáo lý nhà Phật, một nỗi nhục lớn lao của những người Phật tử VN?”
Từ nhận định không vui ấy, ông nêu lên những câu hỏi tiếp:
“Phật tử VN có ai nói điều này chưa? Trí thức Phật giáo có ai
nói chưa?
Báo chí trong nước, không đăng tin về chùa chiền, tu sĩ thì
thôi, mà hễ đăng thì toàn nói những chuyện bê tha, thế tục…[1] của tu sĩ. Nhà chùa khi lên báo thì
tình hình không khác……
Ngoài ra là bài “Phật giáo Việt nam đang ở đâu?” của tác giả
Nguyên Thạch đăng trên mạng Dân Làm Báo ngày 11-3-2017 cũng với những lời phàn
nàn không kém gay gắt. Kèm theo bài viết là tấm hình đông đảo Tăng Ni, tín đồ
Phật giáo xếp hàng trước ảnh Hồ Chí Minh nhân lễ Phật Đản và cũng là dịp kỷ
niệm sinh nhật thứ 125 của họ Hồ (xin coi chú thích của tác giả bên dưới tấm
hình.)
Trong khi ấy người viết cũng được bà Đặng Mỹ Dung tác giả “Ngàn
Lệ Rơi –Thousand Tears Falling” chia sẻ cho đọc Tâm Thư mang tiêu đề “Việt Nam
SOS! Đất nước và Dân tộc Việt Nam đang kêu cứu!” của một Phật tử ký tên Rose[2]. Tâm thư gửi “Quý Hòa thượng, quý Thượng
tọa, quý Đại đức Tăng, Ni cùng toàn thể đồng bào Phật tử trong nước” không
ngoài mục tiêu bày tỏ tâm trạng buồn phiền, phẫn hận vì vắng bóng, vắng tiếng
nói của chư Tăng, Tín hữu Phật giáo trước sự mất còn của quê hương, dân tộc.
TT Thích Thiện Minh, niềm hy vọng của Phật giáo đồ
Trước những lời ta thán trên đây, chúng tôi trộm nghĩ tấm gương
hy sinh, quả cảm và tinh thần yêu nước, yêu đạo của Thượng Tọa Thích Thiện Minh
chắc chắn sẽ là niềm hy vọng cho Phật giáo đồ trong và ngoài nước.
Với cái tâm trong sáng và một tinh thần yêu thương đất nước, yêu
thương đồng bào, luôn hòa đồng với các tôn giáo bạn, ở trong tù cũng như ngoài
đời sống, ngài đã nhận được cảm tình của rất nhiều chức sắc tôn giáo trong số
có LM Phan Văn Lợi[3], Chủ tịch Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị,
Tôn giáo Việt Nam. Và điều này cũng là một trong những yếu tố làm tăng thêm
tình đoàn kết và niềm hy vọng cho tất cả mọi tín đồ thuộc mọi tôn giáo trong
cuộc đấu tranh chống lại mưu toan cướp nước của bọn Tàu cộng với sự đồng lõa của
tập đoàn CSVN hiện nay.
Nam California, Hoa Kỳ ngày 17-3-2017
____
[2] Vài
ngày sau, đáp lại yêu cầu bà Mỹ Dung email cho chúng tôi lá thư ngắn của tác
giả bài viết bằng lòng ghi rõ tên thật của bà là Nguyệt, pháp danh Diệu An, 76
tuổi ở Atlanta, bang Georgea. – Hiện tôi còn lưu trữ những thư trao đổi này.
[3] Trong
hồi ký “Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày” Thượng Tọa đã nhắc nhiều tới những Linh Mục
Công giáo tù chung với ngài với một thái độ vô cùng trân trọng. Ngoài ra, một
đoạn trong bài viết về tác giả cuốn hồi ký, LM Phan Văn Lợi đã ghi lại như sau:
“Trong bất cứ tôn giáo nào, kẻ tu hành không hẳn là người thoát
ly sự đời, cắt đứt mọi vương vấn rồi tìm đến một tu viện, để gọt dũa chính mình
cho hoàn hảo bằng cách luyện đủ nhân đức trong cảnh an tĩnh, nhưng đúng hơn là
người có tinh thần từ bỏ mọi sự để quyết chí noi gương và phụng thờ Đấng Tuyệt
đối Tối cao bằng cách xả thân cho tha nhân, hy sinh cho đồng loại, dấn mình vào
đau khổ để cứu vớt kẻ khổ đau, chấp nhận là nạn nhân của độc ác để giải thoát
kẻ ác độc, nhất là khi nơi mình sinh sống đang chịu sự thống trị của bạo lực,
độc tài. Tôi thiết nghĩ Thượng toạ Thích Thiện Minh là một mẫu người tu hành
như thế!… Những con Phật, con Chúa rốt cùng cũng gặp nhau nơi tấm lòng
nhân ái bao dung, bởi lẽ:
Sự đời sắc sắc không không!
Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi” !!!
Tuesday, February 28, 2017
Sunday, February 19, 2017
Friday, February 17, 2017
Tuesday, February 14, 2017
Friday, February 10, 2017
Tập Hợp Quốc Dân Việt
Xin mời xem http://www.vntv.online/?p=2091
Bôi đậm rồi bấm vào ha2g chữ Go to http://www.vntv.online/?p=2091
Wednesday, February 8, 2017
Một nhà hoạt động cho biết bà Bùi Thị Minh Hằng sẽ được thả tự do vào ngày 11/2, sau 3 năm thụ án vì "gây rối trật tự công cộng". Bà đã từ chối đề nghị đi định cư tại Hoa Kỳ.
Từ thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Bắc Truyển, người vận động cho nhân quyền và tôn giáo Việt Nam cho VOA biết, dù được Bộ Công an Việt Nam khuyên nên đi Mỹ nhưng bà Bùi Thị Minh Hằng đã nhất mực từ chối:
“Chị Bùi Thị Minh Hằng là nhà tranh đấu cho quyền con người ở tại Việt Nam. Chính vì đấu tranh cho nhân quyền nên chị bị giam cầm, tù tội trong 3 năm vừa qua. Vừa rồi chị có nói với gia đình rằng là Bộ Công An có vào khuyên chị là nên đi định cư ở Hoa Kỳ thì họ sẽ thả chị sớm, nhưng chị Hằng đã từ chối. Chị Hằng nói là chị sẽ ở lại cho đến ngày cuối cùng của hạn tù, và sẽ tiếp tục con đường đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam.”
Theo ông Nguyễn Bắc Truyển, gia đình và bạn bè đã thu xếp để đi đón bà Hằng về từ trại giam Gia Trung vào ngày 11/2. Tuy nhiên ông Truyển không biết liệu bà Hằng có được thả từ trại giam hay không:
“Chị Hằng có nói với tôi qua điện thoại là chị không biết về bằng cách nào, nên chúng tôi sắp xếp cho tất cả các tình huống. Trại giam có hứa với chị là họ thu xếp thả chị theo một cách bình thường nhất. Hiện nay có nhiều anh em trong số 21 người bị đánh đập ở Lấp Vò, Đồng Tháp vào năm 2014 đang bị công an để ý, ngăn cản không cho họ lên Sài gòn để đi đón chị Hằng.”
Các trang mạng xã hội cũng cho biết là một nhà hoạt động bị cầm tù khác, là Đoàn Huy Chương cũng sắp mãn hạn tù.
Từ Trà Vinh, bà Chiêm Thị Tường Mạnh, vợ của ông Đoàn Huy Chương cho VOA biết chồng của bà sẽ được ra tù vào 7 giờ sáng ngày 13/2:
“Hôm 29 Tết em có đi thăm ảnh. Ảnh kêu tới ngày ảnh ra (13/2) thì lên đón ảnh từ trai giam K2 Xuân Lộc, Đồng Nai. 7 giờ sáng là ảnh ra rồi.”
Bà nói bà rất trông mong ngày chồng được phóng thích, về lại với gia đình:
“Em rất trông đến ngày ảnh ra. Em mừng lắm. Em trông ảnh ra để ảnh mần phụ nuôi hai đứa nhỏ, một mình em lo khổ lắm. Nhờ có ông bà ngoại đùm bọc. Thằng con trai của em học lớp 9, con gái em học lớp 7. Ở quê em làm mức lương thấp lắm, không đủ cho hai đứa con em đi học.”
Những tin tức quốc tế xoay quanh các vụ bắt bớ các nhà hoạt động, đàn áp giới bất đồng ở Việt Nam thường xuyên bị chính quyền chỉ trích là đưa thông tin sai lệch và “thiếu khách quan và không phản ánh đúng tình hình thực tế ở Việt Nam”.
Đường dẫn trực tiếp
Quá trình hoạt động
Vào năm 2008, Đoàn Huy Chương, sinh năm 1985, cùng Đỗ Thị Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng thành lập phong trào Lao động Việt, để hỗ trợ cho các công nhân tranh đấu cho quyền của người lao động tại Việt Nam.
Vào tháng 10, năm 2010, ông Chương, bà Hạnh và ông Hùng bị xét xử về tội danh ‘chống lại chính quyền nhân dân' theo Điều 89 Bộ Luật Hình sự Việt Nam. Cả 3 người được cho là đã phát tờ rơi và tham gia tổ chức cuộc đình công đòi tăng lương tại công ty giày da Mỹ Phong ở Trà Vinh. Ông Chương và bà Hạnh cùng bị tuyên án 7 năm tù giam, nhưng bà Hạnh được trả tự do vào tháng 4/2014. Hiện nay ông Hùng vẫn đang chịu án 9 năm tù.
Trước đó, ông Chương bị kết tội là thành lập “Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam” năm 2006, và rồi bị bắt tháng 11, 2006 và bị xử 18 tháng tù. Ông được thả năm 2008.
Bà Bùi Thị Minh Hằng là nhà hoạt động nhân quyền được nhiều người biết đến từ năm 2011, khi bà tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn Hoàng Sa - Trường Sa. Kể từ đó, bà trở thành mục tiêu thường xuyên bị hành hung , bắt bớ và giam cầm.
Vào tháng 8 năm 2014, tòa án tỉnh Đồng Tháp tuyên án bà Hằng 3 năm tù giam với tội danh ‘gây rối trật tự công cộng’ theo điều 245 Bộ Luật hình sự. Bà Hằng bị đưa ra xét xử cùng với hai người khác là ông Nguyễn Văn Minh và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, cả hai bị tuyên án theo thứ tự là 2,5 năm tù và 2 năm tù. Ông Minh và bà Quỳnh đã mãn án tù. Cả 3 bị bắt vào ngày 11/2/2014 vì bị quy tội “gây cản trở giao thông nghiêm trọng.”
Năm 2014, trong một chuyến đi từ Thành phố Hồ Chí Minh về tỉnh Đồng Tháp để thăm các nhà hoạt động khác bị công an sách nhiễu và câu lưu, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh cùng đi với một nhóm 21 nhà hoạt động Phật giáo Hòa Hảo, đã bị công an chặn xe với lý do là “vi phạm giao thông”, rồi bị một nhóm côn đồ mặc thường phục hành hung. Sau đó công an bắt cả nhóm, nhưng chỉ truy tố 3 người vừa nêu.
Ngay sau phiên xét xử bà Hằng, bà Quỳnh và ông Minh, Đại Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã lên tiếng bày tỏ “quan ngại sâu sắc” về vụ án này, nói rằng “việc chính quyền Việt Nam sử dụng luật về trật tự công cộng để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ vì bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa là ‘đáng báo động’.”
Ông Phil Robertson , Phó Giám đốc phụ trách Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói “Chính quyền Việt Nam giờ còn dùng cả lỗi giao thông ngụy tạo để truy tố hình sự các nhà hoạt động. Lẽ ra chính quyền Việt Nam nên nhận thức rằng cách hành xử này không đáng để phải chịu sự chỉ trích của quốc tế, và tức thời hủy bỏ những cáo buộc đó.”
Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Bill Cassidy và các nhà lập pháp Mỹ từng thúc giục Hà Nội phóng thích cho nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng, lúc đó nhắc nhở chính phủ Việt Nam rằng "sẽ bất lợi cho chính họ khi họ bịt miệng những tiếng nói bất đồng như tiếng nói của bà Hằng".
Trong bức thư đề ngày 9/9/2015 gửi đến trại giam Gia Trung, Gia Lai, nơi bà Hằng bị giam cầm, thượng nghị sĩ Cassidy viết: “Dù bị tước quyền tự do và bị buộc phải sống trong điều kiện giam cầm tệ hại, bà vẫn tìm cách động viên những người cùng hoạt động xã hội với mình. Tôi xin vinh danh lòng can đảm và sự mạnh mẽ của bà”.
Nhà chức trách Việt Nam từng ra lệnh quản chế không cần xét xử và đưa bà Hằng tới Cơ sở Giáo dục Thanh Hà ở tỉnh Vĩnh Phúc vào năm 2011, chỉ vì bà tham gia biểu tình ôn hòa chống chính sách bá quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bà được trả tự do vào tháng 4 năm sau, do làn sóng phản đối dữ dội từ trong nước và của quốc tế.
Tuesday, February 7, 2017
SỨ MẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA
CHU TẤN
Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả
- Edouard Herriot
Văn hóa là tiếng khóc của con người khi đối mặt với số phận
- Albert Camus.
Tôi không muốn ngôi nhà của mình
bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi
muốn
văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào
- Mahatma Gandhi
I-DẪN NHẬP:
Người xưa thường đề cập tới VĂN KINH CHÍNH GIÁO một cách rất trang trọng .Vậy VĂN KINH CHÍNH GIÁO là gì? Xin thưa đây là nói tắt của 4 bộ môn quan trọng ảnh hưởng đến quyền lợi, họa phúc của người dân và sự hưng vong của Quốc
Gia Dân Tộc. Bốn bộ môn đó là VĂN HÓA, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ và
GIÁO DỤC. Mỗi bộ môn này đều có vai trò, chức năng và sứ mạng riêng song đều hướng đến một cứu cánh chung là phục vụ người dân được sống trong
thanh bình, an lạc hạnh phúc,và đem lại sự giầu mạnh vinh quang cho cho Đất Nước.
Đứng về mặt “cứu cánh” mà xét, thì đây là “Nguyên Tắc kinh điển”, là
“Chính Nghĩa” hay “Đạo Thống Quốc
Gia”. Nhưng chúng ta không quên là cả bốn bộ môn chính yếu này đều do con người
sáng tạo và thiết dựng lên, nên trong tiến trình “hiện thực hóa” văn hóa chính trị, kinh tế, giáo dục …. không phải lúc nào cũng theo một “chiều thuận”, “tiến bộ” mà thường theo “chiều nghịch” “tha hóa” “suy đồi” ….
Tại sao lại
có hiện tượng Văn Hóa tiến bộ và văn hóa suy đồi?Tại sao lại có chính trị cấp tiến và chính trị bảo thủ dẫn đến suy vong?Tại sao lại có nền kinh tế thịnh
vượng và kinh tế lụn bại tụt hậu?
Tại sao lại có nền giáo dục “Nhân bản” “Dân tộc”, “Khai phóng” và nền giáo dục “phi nhân bản”, “phi dân tộc”, “phản khoa học”, cổ hủ lỗi thời? Riêng bộ môn Văn Hóa, -bộ môn quan trọng nhất có vai trò, chức năng và sứ mạng nào trước các vấn nạn của thời
đại? Nhất là trong thời đại toàn cầu hóa ? Nhằm làm sáng tỏ các câu hỏi trên, trong bài tiểu luận này chúng tôi xin
thảo luận cùng quí bạn đọc các điểm sau:
·
Tương quan Văn Hóa Chính Trị
·
Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay
xấu và tùy thuộc cơ chế chính trị xưa và nay như thế nào?
·
Văn hóa Quốc Gia trong thời
đại Toàn cầu Hóa
·
Vai trò và chức năng Văn Hóa.
·
Sứ mệnh Văn Hóa trong thời Đại Toàn Cầu Hóa.
I I. TƯƠNG QUAN
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ:
Trong bốn bộ môn VĂN KINH
CHÍNH GIÁO, người xưa xếp Văn Hóa đứng hàng đầu là rất đúng vì về phương diện
chuyên môn, người ta phân tách ra thành các bộ môn khác nhau, nhưng đích thực theo nghĩa rộng và tổng quát nhất thì cả 3 bộ môn kia: kinh tế,chính trị, giáo dục hay nhiều bộ môn
khác như tôn giáo,xã hội, luật pháp, y tế , địa lý, lịch sử, dân tộc học, nhân chủng học v..v… đều có
liên quan ít hay nhiều, và đều thuộc về bộ môn Văn Hóa cả .Có điều nổi bật nhất, đặc biệt nhất mà chúng ta cần chú ý là Văn Hóa có tính chất lý thuyết, nặng về “phần
TRI”, còn
Chính trị thiên về “phần HÀNH” (Thực tế, thực tiễn,
thực dụng,thực quyền, thực hành, điều hành….) Do đó mới đầu phát sinh ra 2 hiện tượng , rồi sau trở thành
2 chiều hướng lớn
trong lịch sử nhân loại:
·
Khi văn hóa (TRI) và chính trị (HÀNH) cùng “song hành”, “thuận chiều” với nhau trong sứ mạng phục
vụ người dân và phụng sự đất nước-vì nền văn hóa nào xuất hiện, sẽ có một nền chính trị “ tương ứng” hay “đồng dạng” –TRI HÀNH HỢP NHẤT theo lối nói của triết gia Vương Dương Minh thì đây là điều ĐẠI PHÚC cho Quốc Gia Dân Tộc (sẽ đem lại kết quả “Dân giàu nước mạnh”,quốc
gia văn hiến, văn minh)
·
Ngược lại khi Chính trị “không song hành”,
“không thuận chiều” theo
văn hóa, mà vì quyền lợi của cá nhân, phe nhóm, hay đảng phái lợi dụng khi nắm được chính quyền lũng đoạn chính trị, biến chính trị thành vai trò THỐNG SOÁI LÃNH ĐẠO tất cả, coi văn hóa, kinh tế giáo dục, pháp luật đều chỉ
là “công cụ” của Chính tri thì đây là ĐẠI THẢM HỌA của Quốc Gia Dân Tộc.Nếu nền chính trị độc tôn, độc tài toàn trị này lại nhân danh một Ý Thức Hệ (Như ý thức hệ Cộng sản),
đề cao “cách mạng bạo lực”, “thượng tôn giai cấp cầm quyền” theo chủ
trương “vô sản chuyên chính”thì nền chính trị này không còn là nền chính trị phục vụ con người, phụng sự Tổ Quốc mà là nền chính trị phản dân hại nước, đầy đọa con người, giam hãm con người trong địa ngục
trần gian, gieo rắc đau thương đói khổ kinh hoàng cho dân cho
nước,tai họa không thể nào kể xiết đươc.
III- HỌA PHÚC CỦA NGƯỜI DÂN
TÙY THUỘC CÁ NHÂN HAY TẬP ĐOÀN CẦM QUYỀN TỐT HAY XẤU VÀ TÙY THUỘC CƠ CHẾ CHÍNH TRỊ XƯA VÀ NAY NHƯ THẾ NÀO?
·
Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay xấu xưa và nay như thế nào?
A.1- Thời đại Quân chủ phong kiến xưa:
Dù là tại Trung Hoa hay Việt Nam trong thời đại Quân Chủ Phong kiến, đều
có các đấng Minh Quân (Vua sáng suốt) điển hình như Vua Lý Thánh Tông (1054-1072) của Việt Nam, Vua có
lòng nhân từ, “biết thương
dân như con đỏ”..….và các quan lại “thanh liêm”, “chính trực” “có đức có tài “ hết lòng chăm sóc đời sống của dân chúng, lo cho
dân được an cư lạc nghiệp, được cơm no, áo ấm ,đời sống
sung túc, giầu có hạnh phúc…Nhưng tiếp theo những vị
CHÚA SÁNG, TÔI HIỀN kể trên, cũng thường xuất hiện những Hôn quân (Vua u tối-chỉ biết sống xa hoa trụy lạc – không ngó ngàng
gì đến đời sống đói khổ của dân chúng ) và bọn quan lại
vô tài kém đức,chỉ biết hành hạ dân, bóc lột dân bằng nhiều hình thức sưu cao thuế nặng, không bình trị được đất nước,khiến
chiến tranh triền miên, lại thêm tệ nạn tham nhũng, cường hào ác bá khiến người dân chịu khổ cực trăm
chiều… Nhà ái quốc Phan Bội Châu đã không tiếc lời lên án loại vua quan hủ lậu đó bằng lời thơ vô cùng thấm thía:
“Một là Vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì
dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai”
(Trích trong “Hải Ngoại Huyết Thư)
Thực ra khi vua thì u
tối, quan lại tham ô nhũng lạm thì thân phận người dân bị áp bức bóc lột đến tận cùng ….Người dân “thấp cổ bé miệng” nào biết nương dựa vào ai, trông cậy vào ai, kêu cứu nơi đâu để giải oan cho bao nỗi oan khuất, bất công phi lý mà mình phải chịu đựng…. Ca dao Việt Nam cũng đã cực tả thân phận “thấp cổ bé miệng” của người dân dưới chế độ chuyên chế thối nát thời quân chủ phong kiến
“Ếch kêu dưới vũng tre ngâm
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre” …
A-2: Thời Cộng sản Thống trị nay:
Thời quân chủ phong kiến, nhà
vua nắm toàn quyền cai trị đất
nước, sang thời đại Cộng sản, Đảng chính là “Vua Tập thể”cai trị dân bằng đường lối chính
sách vô cùng độc hại và tinh vi hơn nhiều. Sự sai lầm độc ác, không còn trong phạm vi cá nhân mà trở thành sự sai lầm, độc ác
có tính hệ thống …gieo rắc
đại họa cho dân, chưa từng thấy trong lịch sử loài
người! Ngoại trừ những đảng viên cộng sản gộc, nay
nghiễm nhiên trở thành “giai cấp thống trị mới”,
còn toàn thể dân chúng, dù thuộc thành phần “nông dân”, “công nhân” đến “trí thức” đều là nạn nhân của chế độ CS.:
Thân phận giai cấp Nông Dân:
“Nông dân là khối người đông đảo chiếm đến trên
70% dân số
cả nước.Khi chưa chiếm được chính quyền Đảng CS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, gọi nông dân là «hậu bị quân», là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng” để họ “sướng cái bụng” đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng
của mình hết lòng ủng hộ ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi cách mạng thành công, ĐCS sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là “người cày có ruộng”! Nhưng
thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông dân nước ta!
Quả lừa tiếp theo là ĐCS “phát động cải
cách ruộng đất”
nói là để tiêu diệt
giai cấp địa chủ, tước đoạt ruộng đất của giai cấp này chia cho dân cày, trước nhất
là bần cố
nông. “Thắng lợi
vẻ vang” (!) của cuộc Cải Cách
Ruộng Đất hồi giữa thập niên
50 của thế kỷ trước, báo chí đã nói nhiều, giờ
chỉ xin nhắc lại vài điều thôi. CCRĐ thực sự
là một cuộc
thảm sát có tính diệt chủng
đã làm cho 172 nghìn 008 người dân ở nông thôn, chủ yếu
là nông dân, trở thành nạn nhân, nghĩa là bị bắn
giết, đọa đày đến chết,
trong số đó 123 nghìn 266 người (tức
là 71,66%) về sau
được xác nhận là oan; riêng 26 nghìn 453
người bị quy là địa chủ
cường hào gian ác thì có đến 20
nghìn 493 người (tức
là 74,4%) được xác nhận là oan! Còn 62 nghìn
người bị quy là phú nông thì có đến 51
nghìn 003 người (tức
là 82%) được xác nhận là oan! Trong số những
người bị oan cũng có hàng nghìn cán bộ, đảng
viên cộng sản
(tài liệu chính thức trích từ cuốn Lịch
sử kinh tế Việt Nam, tập 2). Đó là chưa nói đến những hậu quả nguy hại khác của cuộc
tàn phá khủng
khiếp ở nông thôn mà ĐCS gọi là “cuộc cách mạng
long trời lở đất” là: bằng cuộc CCRĐ
theo khuôn mẫu
Mao-ít, ĐCS đã phá
vỡ truyền thống tốt đẹp,hòa
hiếu, thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau ở nông thôn mà cha ông
ta đã tạo dựng hàng mấy nghìn năm trước; đã phá hoại đạo
lý, luân thường của
dân tộc và tạo nên một lối
sống giả dối, man trá, điêu ngoa, vu khống, bất
nhân mở đầu
cho sự băng hoại đạo đức, nhân
cách sau này; đã phá hủy cuộc sống tâm linh vốn có lâu đời, vì chùa chiền, miếu
mạo, nhà thờ, những
nơi thờ tự… đều bị phá phách, triệt hạ…
CCRĐ kết thúc, một số
bần cố nông hớn hở
được nhận ruộng tưởng rằng “ước mơ ngàn đời” của
họ đã bắt đầu
được thực hiện. Họ được chụp ảnh, quay phim để ĐCS tuyên truyền
khoe khoang “công ơn” của đảng
đối với nông dân, thì… chưa
đầy một năm sau, ĐCS đã lùa những bần
cố nông đó, cùng các
nông dân khác bắt họ đem ruộng đất tư vốn có của họ vào hợp tác xã, vô hình trung ĐCS tước đoạt
mất quyền tư hữu mà giao ruộng đất
của họ cho các chủ nhiệm
hợp tác xã quản lý. Đấy,
ĐCS đã thực hiện
khẩu hiệu “người cày có ruộng” một
cách bịp bợm
như vậy!
Đến quả lừa “vĩ đại”, tồi tệ nhất của
ĐCSVN đối với nông dân và nói chung cả với toàn dân ta, là… khi soạn thảo và thông qua Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, bằng điều 19 của Hiến
pháp, ĐCS đã nhẹ nhàng,
gần như thầm lặng,
không “long trời lở đất” tí
nào, chuyển
quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái
gọi là “sở hữu toàn dân”! Từ đây, thực
tế ĐCS đã “quốc hữu hóa”, hay nói chính xác
hơn “đảng
hữu hóa” ruộng đất của nông
dân và nhân dân. Từ
đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa
bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của
ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước….” (1 *) Từ đây dẫn tới hiện tượng DÂN
OAN….. lại
càng bi thảm gấp bội, gây
bao đau thương cho nhân dân không bút nào tả xiết ….
Thân phận giai cấp Công Nhân:
Theo
ông Trần Quang Thành một đảng viên
CS đã bỏ
đảng trốn ra nước ngoài để vận động Quốc tế yểm trợ cho việc thành
lập Cộng Đoàn Độc Lập ở trong nước, đã
cho biết về số phận
người công nhân dưới quyền thống trị của CS hiện nay như sau:
“Năm
2006 thấy
tình hình Việt nam có những cuộc đình công mà không có cuộc hướng dẫn của ai cả thì một số anh em trong nước và ngoài nước thấy cần thiết phải thành lập
Công Đoàn độc lập. Ngày
20/10/2006 tại
Hà Nội đã tuyên bố thành lập
Công Đoàn độc lập Việt Nam.Và
cũng kêu gọi
chính phủ Việt nam cho phép
Công Đoàn độc
lập được hoạt động để giúp đỡ những người công nhân Việt Nam.
Sau
đó 1 tuần
tại Warsaw, thủ đô nước Cộng Hòa Ba Lan,
chúng tôi đã tổ
chức hội nghị về quyền lao động quốc tế gồm trên 70 thành viên,gồm cộng đồng người Việt và quan khách Quốc Tế trong nhà
Quốc hội Ba Lan.
Mục đích của cuộc họp đó
để yểm trợ Công Đoàn độc lập trong nước.Cuộc họp đó được chính phủ Ba Lan hết sức ủng hộ, ngồi ghế
chủ tọa là
ông Phó chủ
tịch Cộng đoàn Đoàn kết và ông Chủ
Tịch Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận.
Nhưng
một
điều đáng tiếc là sau khi Việt Nam họ gia nhập tổ chức WTO và họ tổ chức thành
công hội
nghị APEC tại Hà Nội thì họ nuốt lời hứa và quay ra đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn
của
công nhân. Những người sáng lập và
cổ
vũ cho nghiệp đoàn như là luật Sư lê Thị Công
Nhân, Luật
Sư Nguyễn Văn Đài đều bị bắt. Anh Lê Trí Tuệ là Phó chủ Tịch Công
đoàn độc
lập bị truy đuổi và sau đó phải trốn chạy sang Cam Pu Chia,
nhưng cũng bị nhà cầm quyền Việt nam bắt và đến nay không
rõ tung tích.
Năm
2008 một nhóm các anh em hoạt động dưới cái tên là Phong trào lao độngViệt tiếp tục hoạt động bán công khai, giúp đỡ những người công nhân.
Khi
nhà máy Mỹ
Phong ở Trà Vinh quịt lương của công nhân, quịt bảo hiểm xã
hội thì anh em đã hướng dẫn
trên 10 ngàn công nhân đình công
trong vòng 1 tuần.
Giới chủ nhân đã đáp ứng phần lớn yêu cầu của công nhân. Nhưng sau đó
nhà cầm quyền bắt
ba người hướng dẫn trực tiếp cho công
nhân. Họ
tuyên án anh Nguyễn Hoàng
Quốc Hùng 9 năm tù, Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, cũng như anh Đoàn Huy Chương 7 năm tù.
Ngoài
ra chúng tôi cũng nói rõ cho thế giới biết rằng hiện nay Việt Nam có Tổng Liên
Đoàn Lao Động
Việt Nam, nhưng họ là cánh tay nối dài của Đảng Cộng sản. Tổng liên Đoàn Lao Động Việt nam từ khi ra đời từ năm
1946 đến giờ chỉ giữ vai trò thay mặt đảng kiềm tỏa người công nhân chứ không tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân !!!
Cộng việc của chúng tôi rất là thầm lặng. Anh em ở trong nước hoạt động hầu như là bí mật”… (2*).
Thân
phận
người Trí Thức:
Tại Việt Nam chỉ có các cá nhân các nhà trí thức, chứ không có tập thể trí thức. Đa số giới trí thức đều sơ hãi
cam tâm làm công cụ
cho Đảng CS, nói theo lệnh Đảng! Một thiểu số can đảm nói lên tiếng nói của Dân, đòi hỏi Dân Chủ Tự Do và Nhân quyền cho mọi người công dân Việt Nam. .Họ là
những người bất
đồng chính kiến với nhà cầm quyền và thường bị gán ghép chụp mũ là những phần tử phản động bị theo dõi, trù dập bắt bớ tù
đầy, hay bị ám hại thủ tiêu! Một số người bị tra tấn,đánh chết
ngay trong đồn công an rồi vu cho chết vì bệnh ác tính hay treo cổ tự tử !!!....
B Họa phúc người dân
còn tùy thuộc
vào Cơ Chế Chính Trị Xưa và
Nay như thế
nào?
B1-
Thời
Quân Chủ Phong KiếnXưa:
Tại Đông phương,trong thời đại quân chủ phong kiến xưa,có 3 đường lối cai trị dân
nổi bật nhất, và được nhiều người bàn
luận nhiều nhất,
sôi nổi nhất là :ĐẾ ĐẠO, VƯƠNG ĐẠO và
BÁ ĐẠO.
A/
ĐẾ
ĐẠO:
Đây
là đường lối cai trị
dân bằng Đạo Đức (còn có tên gọi khác là “Đạo trị” hay “Đức Trị”) của các bậc Thánh Vương mang tính chất Hoàng kim thời Đại -thời vua Nghiêu, vua Thuấn.Mục đích của Đế Đạo là xây dựng một xã hội lý tưởng,
đặt nền tảng trên tình thương lòng
nhân ái. Thông qua “lễ
nghi và giáo dục” mọi người dân biết yêu thương tha thứ bao dung nâng đỡ nhau, không hề có sự tranh giành chém. giết lẫn nhau….Nhà
vua và các quan lại
đều là những nhà đạo đức, nêu gương sáng cho dân, noi theo, giáo hóa dân xa lánh điều ác, thực
hiện những điều thiện,tạo nên thuần phong mỹ tục, đưa việc hành thiện trở thành thói quen thường ngày của con người.Đưa xã-hội đi vào con đường Chân Thiện Mỹ một
cách tự-nguyện, tự-giác
chính là mục-đích của Đế-Đạo. Kết.quả của xã
hội“Đế Đạo”: Nhà nhà đi ngủ mà không cần đóng cửa.Ngoài đường không có ai nhặt lươm của rơi... Thật là lý tưởng, thật đáng
mong ước!
Đế Đạo lấy việc
thuyết phục giáo hóa làm tôn chỉ hướng dẫn và
uốn nắn xã hội.Đế Đạo không dùng đến pháp luật,
nên không cần xây dựng nhà tù hay các biện
pháp chế tài nào khác...
Nếu bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện
pháp chế tài! Mà khi đã dùng đến biện
pháp chế tài thì có nghĩa là đường lối,
tôn chỉ Đế Đạo đã thất bại
!!?? “Lý tưởng Đế Đạo đã bị sụp đổ !! Đế Đạo chưa bao giờ nếm
mùi thất bại và sụp đổ, lý
do dễ hiểu vì Đế Đạo chưa bao giờ được thực hiện trên trái đất- bất kỳ ở Đông hay Tây Phương! Đế Đạo thực chất chỉ có
trong tưởng tượng hay trong ước mơ của loài người! Dẫu sao Đế Đạo cũng đem lại
cho người đời một GIẤC MƠ ĐẸP không kém GIẤC MƠ THIÊN ĐƯỜNG...
Trong
lịch sử Trung Quốc có
nhắc đến Đế Đạo thời Vua Nghiêu (2337-2258 TCN) vua Thuấn ( ?- 2184 TCN)- được coi như khuôn vàng thước ngọc của
Hoàng Kim Thời Đại !Theo Trúc Thư Kỉ niên: Việc Vua Nghiêu truyền
ngôi cho Thuấn chứ không truyền
ngôi cho con là Đan Chu thường được sử sách đời sau xem là tấm gương mẫu mực của việc chọn người
tài đức chứ không vì lợi
ích riêng tư của dòng họ.(3*)
Trong
thiên Thái Bá sách Luận ngữ, Khổng Tử ca
ngợi Đế Nghiêu: “làm vua như Nghiêu thật là vĩ đại!
Thật là cao quí thay! Chỉ có trời là cao lớn nhất, cũng chỉ có Nghiêu thật là
người biết đựa vào đạo trời.Công đức vua Nghiêu to lớn không cùng,dân chúng không thể ca ngợi cho xiết . Công lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ lễ nhạc do Nghiêu đặt ra
vô cùng sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi”
Các
thế hệ sau Khổng Tử thường
nêu lên câu hỏi: Tam Hoàng Ngũ Đế thời sơ sử của Trung Quốc có phải là
những con người bằng xương bằng thịt hay đó chỉ là
“Huyền Thoại”? Liệu có
một Thời hoàng kim thật sự thời
Vua Nghiêu vua Thuấn? Tại sao Đức Khổng Tử hết sức ca
ngợi công lao của Vua Nghiêu mà không nói
rõ bí quyết hay đường lối trị nước
theo Đế Đạo của Vua .Nghiêu như thế
nào? Nếu“Đế đạo chỉ là giấc mơ không có thật trong thực tế thì
lời khen công đức của
Vua Nghiêu của Không Tử cũng chỉ là “huyền thoại? hay “hư
chiêu” mà thôi ư??
Theo
quan điểm của chúng tôi:: Sở dĩ Đức Khổng Tử hết lời
khen ngợi công lao của Vua Nghiêu vì quả
tình Vua Nghiêu là người Đạo Cao Đức trọng
thật sự… Hơn nữa Không Tử muốn lấy Tấm gương Vua Nghiêu làm khuôn vàng thước ngọc
cho các thế hệ Vua Chúa sau này, lấy đó để làm
ĐIỂN MẪU cho việc cai trị dân
đúng theo Đạo Trời—nhằm
giúp cho thế hệ các Vua sau này nếu không
theo được ĐỀ ĐẠO thì ít ra cũng
là theo VƯƠNG ĐẠO,chứ đừng đi theo BÁ ĐẠO.hay TÀ ĐẠO... Đây là “ Chiến
thuật hay“Đạo thuật” của Không Tử áp dụng phương pháp:“THÁC CỔ CẢI CHẾ” (Thác lời người Xưa để răn dạy Người Thời
Nay....Thiết nghĩ đây cũng chính là BẢN
TÂM của Đức Khổng Tử vậy..)
B/VƯƠNG ĐẠO:
Nói vắn tắt Vương Đạo là
dùng Đức trị, hay Nhân Trị còn bá đạo dung lực tri”
Dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương (Mạnh Tử
Công Tôn Sửu) Dùng võ lực mà thu phục người là “Bá đạo”. Dùng đức mà thu phục người là “Vương đạo”…Theo triết gia Linh Mục Kim Định, chúng ta cần xác định lập trường hai chủ trương đó bằng đưa ra những
điểm khác nhau theo 5 nguyên tắc sau đây:
Nguyên Tắc Thứ Nhất: Cử Hiền
Trước
câu hỏi quyền bính thuộc về ai
? Người có tài đức hay võ lực,
hoặc dòng tộc?
Vương
đạo chủ trương thuộc người hiền đức, cắt đặt người hiền
tài có năng lực (cử hiền dữ năng) Khi Mặc Tử viết :” “Thượng hiền cử năng vi chính” “tôn trọng
người có đức, dùng người có
tài năng làm chính sách (Chương Thượng Hiền)
là tỏ ra Mặc Tử còn trung thành với Khổng
trong phương
diện này).Chủ trương đó chống với câu “Bất thượng
hiền sử dân bất
tranh” của Lão Tử và cũng
là đối lập với
câu “kế thừa huyết thống
Thượng Đế” của
quí tộc, xây trên thần thoại với chế độ kế tử “cha truyền con nối”kể cả
trong hàng quan lại. Đó là chủ trương“thiên hạ vi gia các thần kỳ
thân” “lấy thiên hạ làm của
riêng gia đình ngược với câu Luận ngữ “Phiếm ái chúng nhi thân nhân” “Rộng
yêu mọi người nhưng thân hơn với người nhân đức”
(L.N.16) sẽ được giảng diễn ra
thành thuyết “Đại đồng”
trình bầy trong Thiên Lễ vận“ Đại đạo
chi hành dã, thiên hạ vi công”
Nắm chủ trương then chốt đó rồi ta dễ
dàng hiểu những câu khác.Chẳng hạn
câu “Thiên mệnh mỹ thường”trong
Kinh Thi, thiên Đại Nhã, thiên mênh không phải trường tồn,
có đức thì còn, mất đức
thì hết, vì quyền bính thuộc người Hiền Đức chứ
không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc nhở luôn dưới
nhiều hình thức.Mạnh Tử
nói:“Lập hiền vô phương”,(IV B.20) cắt đặt người hiền
thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết: “Tam đại
chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ giả dĩ bất nhân” “Ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất
thiên hạ vì không có đức nhân:.Nhà Hạ lên
với Vũ có nhân, mất với Kiệt bất
nhân. Nhà Thương được thiên hạ với
Thành Thang có nhân, mất thiên hạ với Văn Võ, Châu Công nhân đức, mất
thiên hạ với U lệ bất
nhân (Mạnh,VII3) Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú
trọng tài đức mà không kể đến dòng họ.Trọng
Cung có tài đức mà không được dắc dụng
chỉ vì thuộc tầng lớp thường
dân. Khổng ví Cung với con bò tơ sắc đỏ sừng tốt (đủ đều kiện để tế) người ta
không dám dùng để tế vì mẹ nó lang, nhưng thần
sông núi có từ đâu? (L.N.VI.4) Theo chủ trương kế hiền thì Trọng Cung không những nên
cử làm quan mà cả đến
làm Vua “Ung giả sử nam diện” Trò
Ung (tức Trọng Cung) có thể bầu
làm Vua(L.N.VI.1).Ông thường khen Tử Lộ mặc dầu áo
thường cũng không ngại đứng
vào hàng đại thần (L.N.IX.25) và hy vọng lớn nhất của
ông đặt vào một người
bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ tức
Nhan Hồi.Cũng trong tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức
quan Đại Thần.Do đó
ông đặt việc Vua Nghiêu sợ ông
Thuấn không ra giúp mình, Thuấn sợ
ông Cao Dao bất hợp
tác(Mạnh III.4) Trọng Cung vấn
chính viết “tiên
hữu ty, xá tiểu
quá, cử hiền tài” (XIII.2) Dưới
con mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là
thời nhiếp chính của
ông Chu Công.Trong L.N.XIV.20 hỏi tại
sao Vệ Linh Công vô đạo mà
nước còn? Được trả lời là
tại biết giao cho quan đại thần
cai trị (Trọng Thú Ngữ giữ ngoại
giao, Chúc Đài giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ
binh) vì thế mà nước còn.Đó là chủ trương “quan cai tri vua kiểm soát”tức sự
quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải
trung với đạo chứ không trung với cá
nhân vua “dĩ đạo sư quân, bất khả tắc chỉ”
(L.N.XI.23) Chủ trương đó sau này Mạnh Tử đặt nổi bằng
câu “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” hoặc
câu của Tuân Tử “Trụ bạo quốc
chi quân nhược tru độc phu”(Tuân
Tử chính luận) giết
vua tàn bạo cũng như giết kẻ độc
phu (chẳng thần thánh gì)” Thật là
sớm sủa khi ta so sánh với sự
kinh hoàng của bao người Tây Phương coi việc giết Louis XIV
như một tội phạm sự
thánh.Chung qui đó là hậu quả của
thuyết kế Hiền.
Nguyên Tắc Thứ Hai: Giáo Chi
Chủ trương cử hiền tài như trên thật đúng
là Tinh Thần dân chủ chỉ chưa có phổ
thông đầu phiếu.Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học cố gắng
giật cái độc quyền học thức ra
khỏi tay phái quyền quí để mở rộng
ra trong quần chúng, không phân biệt
quí tiện: “Hữu
giáo vô loại”(l.N.XV.38) trong việc
giáo hóa không có phân biệt giai cấp
quí tiện sang hèn. Với chúng ta hiện
nay, điều này quá tầm thường
nhưng đời Khổng thì đó là một cuộc
cách mạng tận nền.Điều đó dễ hiểu
khi ta nhận xét bên các nước Âu
Mỹ có tiếng là tiên tiến mà
mãi tới năm 1850 mới mở cửa
giáo dục cho toàn dân, Còn trước
kia dành riêng cho quí tộc (C.C 152) Như thế ta thấy việc của Khổng
thật là táo bạo sớm sủa và
là một cú chí tử đánh
vào thể chế “Quyền
quý thế tập” dưới con mắt của họ việc nhận người
nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy
cai trị là một việc
phá rối quốc gia. Đời
ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng,
số người chống đối vì
thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối
chí Khổng Tử là dạy đời
không biết mỏi mệt (Hối
nhân bất quyện) nên mới
gây ra nhiều phản đối
pháp gia chủ trương giữ độc
quyền giáo dục cho quyền
quý thế tộc.
Ở đây nên ghi nhận câu trong Luận Ngữ “dân chỉ có thể
theo chứ không thể hiểu được” “dân khả sử do
chi, bất khả sử tri
chi” (L.N.VII 10.) coi như nghịch với chủ trương
trên đây.Nhưng nên chú ý ,nếu
câu đó thật là của Khổng Tử thì
chúng ta không biết được trong trường hợp
nào ông đã nói câu đó và nhân đấy giới hạn
câu đó đến đâu (C.C.219) Do đấy có
thể dịch khác nhau, hoặc “dân
chỉ cần sai khiến,không cần dạy bảo”như thường thấy. Dịch thế là
đi ngược với chủ trương “giáo chi” vừa nói trên..Hoặc là
“dân chỉ có thể theo mà không biết được” thì dẫu ngày nay cũng không có
gì đáng trách cả,bởi nói về đạo lý
hay cả về chính trị, thì làm sao cho toàn dân hiểu được. Ngay đời ta giáo dục phổ
thông đã tràn ngập mà đại chúng còn chưa hiểu nổi
chính trị và đạo lý phương chi đời ấy.Nên
thánh hiền theo nguyên lý tùy năng lực,
ai có khiếu học hiểu
thì đi học mà làm quan để làm chính trị,
còn nếu không đủ năng lực thì nên làm theo. Nếu
không chịu hiểu như thế thì câu trên phải cho là xen vào sau, nó
giống với câu Lão trong Đạo Đức
Kinh 65 “dân mà khó cai trị là
tại nó học biết” Câu
đó đi ngược với câu “tiểu
nhân học đạo tắc dị sử
giã” (L.N.17-24) người thường dân có học đạo
thì dễ cai trị.
Nguyên tắc Thứ Ba: Phú Chi
Muốn
cho dân nhờ giáo dục thì phải có
của dư dả mới
tìm ra thì giờ nhàn rỗi đi học, nếu như bụng đói
thì hết có thể nói đến học với
hành, có hô hào cũng vô ích.Vì thế tất cả
sách Mạnh Tử phản
chiếu mối lo âu làm sao dân giàu
“dân khả sử phú dã” (Mạnh Tử
VII.23) không có sách nào trong triết học
tha thiết về vấn đề làm
giàu bằng, nên trước khi nói “giáo chi” Khổng Tử đặt “phú chi” Điểm này cũng phản lại
pháp gia chủ trương làm giàu Chúa,yếu
dân (phú quốc, cường binh) Khổng trái lại
làm giàu dân: “bá tánh bất túc, quân thục dữ
túc” (L.N.XII.9) bá tánh không đủ ăn
thì vua đủ ăn với ai.Ông đã từ Nhiễm Hữu là
người đi sái tinh thần “phú
chi”bằng câu “quân tử chu cấp bất kể
phú”( L.N.VI 3) “người quân tử thì cấp
phát cho khắp hết,chứ không
gia thêm cho người giàu” Kinh Dịch quẻ Ích
. “Tổn thượng ích hạ,
dân duyệt vô cương” “ Lời Thoán nói rằng :
quẻ Ích là lấy bớt của người
trên mà thêm cho người dưới thì dân ủng hộ vô
bờ bến”.
Chính Khổng Tử thường
tuyên bố coi phú quí phi nghĩa như
phù vân (L.N.VII 15) Muốn hiểu câu này, nên chú trọng
thời đó chưa có kỹ nghệ,
buôn bán chưa mở mang, người ta không có cách làm
giàu nào mau chóng hơn là làm quan để bóc lột
dân chúng.Chính vì tình trạng đó có
câu “vi nhân bất phú, vi phú bất nhân (Mạnh Tử
III3). Vì thế Khổng nói “Nước vô
đạo mà giàu có phú quí là điều đáng
sỉ nhục, cũng như nước có đạo mà mình nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ” (L.NVIII.14).Khi Quí Khương Tử ngỏ ý sợ dân
ăn trộm, Khổng Tử liền trả lời thẳng
:Nếu ông trút bỏ được lòng tham, thì có thưởng dân cũng không thèm ăn
trộm (cẩu tử bất dục,
tuy thưởng chi bất thiết)
(L.N.XIII.17)
Điều lo âu của
ông vẫn là “bất hoạn quả như hoạn bất quân(L.N. XVI.1).Không lo không có của mà lo có của nhưng chia không đều, vì nó dễ chảy vô
vào tay mấy người có quyền thế .
Nguyên
tắc quân phân tài sản đó
sau này được Mạnh Tử
phát huy rộng trong chủ trương “Minh quân chế dân chi sản”
(I,6) bậc minh quân phải lo phân chia tài sản đều
cho dân (đọc thêm Mạnh 1,12,36, 38) và làm
cho dân giàu thì nước mạnh.Và nhân đấy
ông đề cao phép tỉnh điền cũng
như Nho giáo chống đối việc
bán đất mà sau này đời nhà Tần,
Thương Ưởng đã cho phép (Zanker 193.
C.A Maspéro314) Cho bán đất tức
coi đất là của riêng (thiên hạ vi
gia) và nếu coi là công thì
phải để chung rồi cứ thời hạn mà
phân phát “Quân cấp”đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng
không được giữ quá 10 mẫu thời Trần
bên ta là hậu quả của
thuyết quân phân này. Gọi là
công điền hay là đất của
Vua chỉ khác danh từ mà thôi.Nhiều người tỏ ý mỉa
mai những luật cấm
không ai được tậu đất
làm của tư kẻo mất
quân bình. Mà không thấy rằng từ khi
bãi bỏ thể chế đó đã cho phép mua bán đất (Đời Tần)
thì sự chênh lệch trở
thành quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông nô cơ cực
làm cớ cho cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ
còn 5% (Xem chẳng hạn
Histoire de la Chine de rené Grousset: 77,114, 208, và 353) Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi
một thể chế được bảo trợ là
vì nó gây điều kiện thuận lợi
cho chủ trương Vương đạo.
Tuyên bố mọi đất của Vua tức là
một lối thi hành câu “Thiên hạ vi
công” nhờ đó“Người 50 tuổi có
lụa mà mặc, 70 tuổi có
thịt mà ăn (Mạnh Tử
VII.22) Những cải cách điền địa hiện
nay, những khẩu hiệu “đất đai
thuộc người cày người cấy” tuy
khác thể chế mà tinh thần đều là
“Hoạn bất quân” của người xưa vậy.Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.
Nguyên tắc Thứ Tư: Lễ Trị
Con
người hễ đã
giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao
lên.Bởi vậy tiếp
theo chương
trình “giáo chi”, “phú chi”ông chủ trương lễ tri “Đạo chi dĩ chính, tề chi
dĩ hình, dân miễn vô sỉ.Đạo
chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thá cách”Dùng chính trị
hình luật mà cai tri thì dân mới chỉ biết
tránh phạm luật, dùng đạo đức và
lễ nhạc dân mới
trau dồi nhân cách”
Việc Lễ trị tuy
phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho phái quyền
quý còn thường dân thì trị bằng
luật “lễ bất hạ thứ
dân, hình bất thượng đại
phu”(Couvreure 153) Tuy câu này có trong Lễ ký,
nhưng chắc do Pháp gia đưa vào, vì nó trái với chủ trương không phân biệt quí tiện của Khổng Tử “Quân tử vô chúng quả, vô
tiểu đại”(L.N.XX.20) Người quân tử
không phân biệt ít hay đông, lớn
hay nhỏ, như không phân biệt
Kinh Thượng ở đâu
cũng phải cư xử cung kính,trung tín “Cư
xử cung chấp sự
kính. Dữ nhân trung.,Tuy chí Di Địch,
bất khả khí dã” ( L.N.XIII.19)
“cư xử phải tự trọng,
khi thi hành việc (với người
khác) phải kính tôn.Đối với
tha nhân phải trung tín.Dầu sang miền Di
Địch
(Mường rợ 785) cũng không thể bỏ được những nguyên tắc đó
(không được phân biệt Kinh với Thượng
trong lối đối xử. Ở đâu cũng là người cả)
Trước
kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này mới mở rộng đến
toàn dân. Đó là việc làm của Thưởng Ưởng
nhưng người cổ động đâu
tiên là Khổng Tử (C.A. Maspéro P.95) Và lễ gia
tiên,ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau
nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới
toàn dân không phân biệt sang hèn (R. Grousser, Histoire de la Chine (P.15). Như
thế không thể bảo Khổng Tử
phân biệt qúy tiện, mà chính ông là người muốn đại
chúng hóa lối cai trị bằng Lễ.
Bởi nó
là lối cai trị trung dung giữa
hai Thái Cực là hình pháp và thả lỏng,và
là lối xứng hợp
quan niệm con người cao cả hơn hết như sẽ bàn sau.
Nguyên Tắc Thứ Năm:Thành
Tín
Lể trị là
một lối cai tri tôn trọng người dân; coi người dân như người cộng
tác với chính quyền. Đã
nói đến cộng tác thì chữ Tín
là cần “Thượng báo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng
tình (L.NXIII). Nếu người trên thành tín thì
không ai không hết tình..Đã tín thì phải
coi ý dân làm trọng.Bên phía pháp trị coi
trọng thần lực và
dùng quyền uy vũ lực, ít chú ý đến
lòng dân.Bên Lễ trị thì chủ trương lất tín làm đầu “Kính ư dân
hưng, kính ư thần vong” (Tả truyện)
Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu quỉ thần thì sẽ bị diệt
vong và “đắc thiên hạ hữu đạo, đắc kỳ
dân, tự đắc thiên hạ hỹ (Mạnh Tử
IV.9) ,có một đường lối để được thiên hạ, đó là
được lòng dân và “đắc hồ
khâu dân nhi vi thiên tử (Mạnh Tử
VIIb, 14) được lòng dân ở đồng
bái là làm được thiên tử (nên đọc cả câu
trong sách)
Trong
ba vấn đề “túc thực, túc binh, dân tín nhi
dĩ hĩ”|thì ông cho Tín là quan trọng hơn cả bởi vì “dân vô tín bất lập”
(L.N.XII.7) “Dân không tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi”.
Do đó chủ trương “Hữu nhơn tắc hữu địa” có dân tự nhiên có đất (ĐH.10) để trả lời
vào mặt ông cai trị chuyên lo mở rộng đất đại,
tích chứa giầu sang mà không chú ý được
lòng dân.Ông ghét nói đến chiến tranh binh lực“Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức
dã” (L.N. XIV.35) con ngựa ký được xưng tụng không vì có sức mạnh
mà vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát huy chủ trương chống bạo lực rộng
rãi “người hiều chiến
thì tội chém chưa đủ đền”(nhất tướng
công thành vạn cốt khô) và nhân đó gây ra
trong văn hóa Viễn Đông một bầu
khí “trọng văn khinh võ”
khác hẳn ở xã hội chẳng hạn cũa Phlaton “luôn luôn nói đến chiến
tranh binh lực”
Thân
hữu có thể đọc đầy đủ
trong KIM ĐỊNH
Nho giáo nguyên Thủy )
(4*)
C/BÁ ĐẠO.
Bá đạo là dùng vũ lực và luật pháp (Cũng gọi là Pháp trị) để cai trị dân. Có điều danh từ Pháp trị ở đây chúng ta phải để ý có sự phân biệt rõ rệt như sau:
- Thời
quân chủ Bá đạo
dùng luật pháp để cai trị dân
và gọi đó là “Pháp trị” (Khác với “Đức Trị” “Nhân Trị”của Vương Đạo)
– Thời
Dân Chủ cũng
dùng luật pháp để cai
trị và gọi là thượng
tôn luật pháp. Nhưng có sự
khác nhau giữa “Quân chủ Pháp trị” và
“Dân chủ Pháp Tri
+ Quân chủ Pháp trị= (luật Pháp do nhà Vua và quan
lại triều đình tự lập ra- Tất nhiên không có ý kiến của dân chúng)
+ Còn Dân Chủ Pháp trị= (Luật pháp do những vị “Nghị sĩ hay
dân biểu”là những người đại diện cho dân soạn thảo ra- tức luật pháp do ý kiến của dân chúng)Luật Pháp của nền “Dân Chủ Pháp trị ”do Hiến Pháp qui định.
Tại Trung Hoa Bạo chúa Tần Thủy Hoàng là tiêu biểu cho đường lối Bá đạo (5*... Bá Đạo là phương pháp dùng vũ lực.+ luật pháp của kẻ cầm quyền bắt dân chúng phải răm rắp
tuân theo. Để thi hành bá đạo Tần Thủy
Hoàng chủ trương đốt sách chôn học trò.( học
trò là tiếng nói của kẻ sĩ- rất nguy hiểm cho chế độ độc tài cần tiêu diệt từ
trong trứng nước- Hai hành động
tàn ác này của Tần Thủy
Hoàng nhằm “triệt tiêu”mầm chống đối tại
trong nước.. Không cho tiếng
nói chống đối của người
dân được cất lên hay thậm
chí lời bàn tán xầm xì trong dân chúng! Trên
cả nước, chỉ có tiếng nói hay pháp lênh duy
nhất- là luật
pháp của triều đình
ban
ra bắt
dân phải tuân theo)
B-2
Thời Đại Dân Chủ Nay
·
Cơ chế Tư Do Dân Chủ.
“Thế chế hay
chế độ chính trị là mô hình tổ chức
nhân xã, nói một cách dễ hiểu,
là tổ chức chính trị,
kinh tế, xã hội, luật
pháp của một cộng đồng
con người.
Người ta
thấy có chế độ độc tài,chế độ dân
chủ. Trong chế độ độc tài có nghĩa là chế độ mà
quyền hành trong tay một người
hay một nhóm người (oligarchie) Trong chế độ dân chủ là chế độ mà quyền hành nằm
trong tay người dân, người dân có quyền
quyết định số phận
mình, người ta thấy có dân chủ trực tiếp như ởThụy Sĩ, những quyết định
quan trọng đều do trưng cầu dân ý quyết định
và chế độ dân chủ gián tiếp người
dân bầu ra đại diện của
mình trong nhiệm kỳ, những
người được bầu này thay mặt
dân lấy những
quyết định .Hiện nay phần lớn nhũng chế độ dân chủ là những
chế độ dân chủ gián tiếp.
Trong
chế độ dân chủ gián tiếp,
người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa Kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh, và phần lớn
các quốc gia trên thế giới.Người ta
cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống
chế, nửa đại
nghị chế như ở bên Pháp.
- Sự
quan trọng của thể chế
chính trị trong đời sống
con người.
Thề chế
chính trị giữ một
vai trò quan trọng trong sự phát triển đời sống
con người. Vì vậy có người ví
thể chế chính trị như mảnh đất và người dân như hạt mầm.Con
người dù là da vàng, da trắng
hay da đen
có thể ví như hạt mầm, nếu hạt mầm
này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống dưới một chế độ tốt,chế độ tôn
trọng con người, những
quyền căn bản của
con người được bảo đảm, đồng
thời được hướng dẫn ,
dìu dắt bởi một nền
giáo dục tốt, một hệ thống
an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm
này sẽ kết bông nẩy trái… người
dân sẽ sống trong an lạc hạnh
phúc...Điển hình như quốc gia Nam Hàn. Từ khi
chế độ độc tài chuyển sang chế độ dân chủ đất nước đã vô
cùng phát triển:
“Nển
khoa học kỹ thuật
tân tiến hiện nay được coi là ngành điện thoại cầm
tay, vì trong đó là cả một cái máy điện toán tối
tân, thế mà Nam Hàn với hãng Samsung đứng đầu
trong việc sản xuất và
bán trên thị trường đã
lâu, trên cả hãng Apple của Hoa Kỳ và
hãng Nokia của Phần Lan. Ngành xe hơi cũng
vậy, hãng Kia của Nam Hàn mặc dầu mới xuất hiện nhưng số lượng bán cũng không thua gì những
hãng quốc tế nổi tiếng từ lâu
đời khác như hãng General Motor, Toyata, Wolkswagen,
Renault.Nam Hàn từ mấy chục năm nay đã nổi tiếng về
giáo dục, người thợ Nam
Hàn có một trình độ hiểu biết tổng
quát đứng đầu thế giới.Người
chuyên viên Nam Hàn cần cù làm việc, chịu
khó học hỏi đi làm nơi nào cũng được trọng.Bằng cớ là
hai tổ chức quốc tế
quan trọng nhất thế giới là
Liên Hiệp Quốc và ngân hàng quốc tế ,đều được cầm đầu bởi người
Nam Hàn.
Được như vậy tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một
trong những lý do chính đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tư
do, dân chủ, mặc dầu chế độ này mới được thiết lập vào khoảng
thập niên 80..
Không
nói đâu xa, chúng ta trở về Việt nam thời cận đại.Hai chế độ miền Nam Việt
Nam thời trước 1975 là hai chế độ cộng hòa, Đệ Nhất và
Đệ Nhị Cộng
Hòa. Hai chế độ này, vào thời đó có
thể so sánh với những nước
dân chủ tiên tiến, nhưng nó là một trong những nước
dân chủ đầu tiên ở châu Á, chỉ
thua có Nhật. Chính vì vậy mà miền
Nam cũng đã phát triển hơn cả Nam Hàn và Đài Loan lúc bấy giờ.Nếu
tính theo sản lượng đầu người
hàng năm thì vào cuối thời Đệ Nhất Cộng
Hòa, sản lượng của miền
Nam Việt Nam là 118$ trong khi đó cũng của
Nam Hàn và Đài Loan là trên dưới 80$.Sự
phát triển của miền
Nam được ngay những người cộng sản công nhận,
như ông Lê Đăng Doanh, “nhà kinh tế Cộng sản ,
trong một bài phỏng vấn của đài
BBC cũng công nhận là sau 1975 ông vào miền thăm Miền Nam đầu tiên, ông đã phải ngạc
nhiên về trình độ phát triển,ông
đi thăm những vùng quê, ông thấy nơi nào cũng có điện, có máy cầy, đời sống
người dân tương đối đầy đủ.
Nhà văn Dương Thu Hương cùng với “đoàn quân chiến thắng” vào
miền Nam, trước đới sống
dân miền Nam, bà đã sững sờ bà
tìm một góc phố, như lời bà kể, để khóc, và sau đó tuyên bố “Tôi đã cùng một đoàn
quân chiến thắng nhưng mô hình tổ chức xã hội của kẻ chiến bại lại văn minh hơn mô hình của kẻ chiến thắng.”
Chính “Luật người cầy có
ruộng” của thời Đệ Nhị Cộng
Hòa Việt Nam đã được
chính phủ Đài Loan bắt chước và
đem áp dụng thành công ở nước
này.Chỉ tiếc rằng
những gì đã được xây dựng ở miền
Nam đã bị cộng sản đổ xuống
sông xuống biển. Chính vì vậy mà
dân miền Nam đã có câu “Năm đồng đổi lấy một xu, người khôn đi học,
thằng ngu làm thày(“6*)
B-Chế Dộ Độc
Tài Toàn Trị Cộng Sản:
Ngược lại với
Nam Hàn,chế độ Bắc Hàn là một chế độ cộng sản độc
tài, người dân sống dưới chế độ này không những không thể
phát triển được mà hàng năm còn bị nạn đói
hoành hành từ bao chục năm nay.Ngoài xã hội thì những
hãng xưởng thiếu điện để chạy nhà máy, trong khi những
công thự chỗ tôn thờ
lãnh tụ thì điện chan hòa cả
ngày lẫn đêm. Giáo dục là một nền
giáo dục nhồi sọ, từ trẻ em
cho đến người lớn chỉ biết
vâng lời, gọi dạ bảo
vâng, nhắc lại những
khẩu hiệu tuyên truyền rỗng
tuếch...Ngừơi ta nói “chế độ độc tài là chế độ cái
loa, cái còng và cây súng”là vậy.
Nhìn
vào lịch sử cận đại,2
chế độ cái loa, cái còng và cây súng là chế độ độc tài phát xít Hitler và chế độ cộng sản. Cả hai
đều dựa
trên quan niệm triết lý,tư tưởng bất
bình thường: Hitler cho rằng
chủng tộc Aryen là chủng tộc
tinh khiết, không pha trộn với những
chủng tộc khác Đây là một điều vô
cùng phản khoa học.Theo Hitler dân tộc Đức
tiêu biểu cho chủng tộc
này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới.Chính
vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại
phát động chiến tranh khắp nơi. Marx thì cho rằng lịch sử con
người là bạo động,
là đấu tranh giai cấp,không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn Thư Cộng Sản “Lịch sử
nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử đấu
tranh giai cấp”Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và
tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học,
như những người cộng sản bắt đầu bởi
Marx thường rêu rao “Khoa học lịch sử,
Khoa học biện chứng”Không
cần chứng
minh dài dòng, chúng ta chỉ nhìn chính chúng ta và
những người chung quanh, xét cuộc đời
thì chúng ta rõ:Bình thường con người muốn sống
hòa bình.Con người chỉ
dùng bạo động trong những trường hợp bất
bình thường.Điều này đúng với cả lịch sử của những
quốc gia.Marx và những
người cộng sản đã lấy
cái bất
bình thường làm cái bình thường,
nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất
bình thường,bệnh hoạn. Đấy lại chưa nói đến ngay từ lúc đầu,chế độ cộng sản, bề
ngoài thì mang nhãn hiệu “Thế giới đại đồng,
anh em cộng sản”nhưng bên trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan,
bành trướng. Bề
ngoài mang nhãn hiêu “Liên Bang các cộng
hòa xã hội sô viết (URSS), nhưng bên trong, Lenine, qua tay em của
mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc
trách về vấn đề các dân tộc chung quanh, bắt họ đi
theo Liên Sô. Bằng chứng
rõ ràng là khi đế quốc Liên Sô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc
này nổi lên đòi độc lập.
Chính
vì mang đầu óc quốc gia cực đoan, bành trướng, nên đã có những vụ
tranh chấp Nga-Hoa ở biên giới
vào những năm 60, tranh chấp giữa Việt Cộng
và Trung Cộng, rồi đi đến chiến tranh năm 1979, tranh chấp Việt
Miên rồi cũng đi đến chiến
tranh trước đó năm 1978.
Sau
khi Liên Sô sụp đổ thì Việt Cộng
chạy sang thần phục
Trung Cộng, mở đầu bằng Hội
nghị Thành Đô tháng 3/1990, và không ngừng
ký những hiệp ước
dâng đât nhượng biển cho Trung Cộng.
Nhưng vì Trung Cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc,
nay lại được cấy vào vi trùng bất
bình thường Mác Lê, nên mộng
bành trướng càng ngày càng mạnh.
Mặc dầu cả 2
bên, lúc nào cũng rêu rao “Bốn tốt và
mưới sáu chữ vàng”nhưng đùng một
cái, Trung Cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền
lãnh hải Việt Nam.
Nhiều người vì
tin tưởng ở những
câu nói đầu môi chót lưỡi của cộng sản “Tình
huynh đệ tốt, Môi hở răng lạnh, Tình đồng chí cộng sản”đã ngỡ
ngàng về sự việc Trung cộng đặt
giàn khoan dầu ở quần đảo
Hoàng sa, thuộc về chủ quyền Việt
Nam.Thực ra nếu chúng ta xét lịch sử xa
của cộng sản,
thì chúng ta không có gì ngạc nhiên.Trung cộng
và Việt cộng đã
nhiều lần đánh
nhau.
Bởi lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt
Nam và Trung Hoa vẫn còn phải mang cái ách chế độ cộng sản, lấy lý
thuyết Marx làm nền tảng
cho chế độ kêu gọi đấu
tranh giai cấp, một lời
kêu gọi chiến tranh triền
miên, không những chiến tranh chính nội bộ, mà
còn chiến tranh với nước
ngoài, chừng đó hai dân tộc
không thể nào sống hòa bình với
các nước chung quanh và với cộng đồng
thế giới.
Người
dân sống dưới chế độ độc tài phát xít hay độc
tài cộng sản không những
chỉ như một hạt mầm
gieo trên một mảnh đất
khô cằn mà còn bị giới
lãnh đạo dùng như những bia đỡ đạn cho tham vọng bành trướng
và đế quốc của
mình.
Vì vậy,ngày
hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát triển
hay phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại
trào lưu tiến hóa của con người là
như vậy.
Quả thực
nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh, từ trẩy hái qua du mục,
quân chủ, tới dân chủ
ngày hôm nay, mỗi một nền văn minh tương xứng với một mô
hình tổ chức nhân xã khác nhau hay
nói một cách rõ hơn, hiện đại hơn là cách tổ chức chính trị,
kinh tế khác nhau, từ thể chế gia
tộc, bộ lạc, tới
quân chủ và dân chủ.
Nước
Tàu và Việt nam hiện nay nói riêng và các nước phương Đông nói chung trong đó có cả các
nước Trung Đông, những nước
này đã có một nền văn minh rất sớm,hơn cả Tây
phương.Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài quá lâu.Ngày hôm
nay chế độ cộng sản ở Tầu và
Việt Nam cũng chỉ là một chế độ quân chủ phong kiến
trá hình.Chế độ cộng sản để rồi sẽ tắt
luôn như một nhóm lửa trước
khi tàn.
Tây
phương mặc dầu văn minh đến chậm hơn Đông phương, nhưng đã biết từ bỏ sớm chế độ quân chủ để bước
sang chế độ dân chủ, và kinh tế thị trường đã
phát triển rất mạnh,
vượt mặt Đông
phương.
Đối với những
chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông cấm đoán
ngay cả những người phụ nữ làm
đủ mọi nghề, ra đường phải bịt mặt, tới chế độ cộng sản tước hết mọi
quyền căn bản nhất của
con người, người xưa có câu “Trễ còn hơn không” Hãy từ bỏ thể chế
chính trị quân chủ phong kiến, độc
tài cộng sản để bước
sang chế độ dân chủ tôn trọng
những quyền căn bản của con người, trong đó có
nam nữ bình quyền, tự do
tư tưởng và ngôn luận, thì mới hy
vọng theo kịp những nước văn minh. Gương Nam Hàn và Đài Loan cho ta thấy
rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước
sang chề độ dân chủ, thế mà
ngày hôm nay cả 2 nước đã có
thể sánh cìng với những nước văn minh khác trên thế giới.
Đất nước và
dân tộc đang
đứng trước hiểm họa diệt
vong, trong thì đảng cộng sản mặc
tình cấu kết với
ngoại bang bán đất dâng biển,
hèn với giặc, ác với
dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người
dân, ngoài thì Tầu cộng lộng
hành, ngang nhiên kéo dàn khoan đến vùng biển Việt
Nam. Con đường duy nhất để chống
ngoại xâm là bằng mọi
cách phải thay đổi thể chế
chính trị từ độc tài cộng sản
qua Dân chủ Tự do, vì có như thế, giới
lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh
toàn dân, vận động được các quốc
gia và cộng đồng yêu chuộng Tự Do
và Hòa bình trên thế giới cô lập và
bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tầu cộng
(7*)
IV-
Văn Hóa Quốc
Gia trong thời đại Toàn Cầu Hóa Văn Hóa
“Trong
hiện tình văn hóa thế giới
hôm nay có thể khẳng định rằng
bên cạnh quá trình toàn cầu
hóa kinh tế đang
diễn ra như một xu thế tất yếu và
đang trở thành đề tài sôi nổi và
nóng bỏng trên thế giới
thì chúng ta còn nhận ra một trào lưu toàn cầu
hóa, thậm chí còn quyết liệt hơn, sâu sắc hơn,đó là toàn cầu hóa
về văn hóa.
Với
tình đặc thù và tính độc lập tương đối của mình, quá trình toàn cầu
hóa diễn ra rất gần
song song với toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu
hóa kinh tế nói riêng. Trên cơ sở sự tăng cường mạnh mẽ của
toàn cầu hóa kinh tế,sự tăng cường mạnh mẽ của
các thành tựu khoa hoc,công nghệ, đặc biệt là
giao thông và viễn thông ; sự tăng cường giao lưu ảnh hưởng và xích lại gần
nhau giữa các dân tộc, các quốc
gia , khiến văn hóa các dân tộc có
nhiều cơ hội giao lưu ảnh hưởng,cọ sát,học hỏi
chia sẻ lẫn nhau.Trong quá trình như vậy, một mặt văn hóa các dân tộc vừa
phong phú đa dạng hơn, mặt khác cũng không loại trừ sự mất
mát, thui chột của các nền văn hóa, các yếu tố văn hóa lỗi thời, không còn sức sống cạnh
tranh. Như vậy,cũng như toàn cầu
hóa nói chung, mà cốt lõi của nó là toàn cầu
hóa kinh tế, thì toàn cầu hóa văn hóa cũng đương
nhiên hiện hữu. Vấn đề chỉ còn
là toàn cầu hóa văn hóa như thế
nào, theo tiêu chuẩn nào, mức độ nào
mà thôi.
“Toàn cầu hoá văn hoá có thể được hiểu là
quá trình văn hoá các dân tộc,
thông qua giao lưu, dung hợp, xâm nhập và bổ sung lẫn nhau, không ngừng phá vỡ tính hạn chế về khu
vực và về
mô hình của văn hoá dân tộc mình và trong sự
bình phán và chọn
lọc của loài người
mà đạt được sự hoà đồng văn hoá, không ngừng
chuyển các nguồn
khu vực của văn hoá dân tộc
mình thành các nguồn
hưởng thụ chung, sở hữu chung của loài người. Tuy nhiên,
điều cần chú ý là toàn cầu
hoá văn hoá là một quá trình bao gồm sự xung đột, giao lưu, dung hợp giữa các nền văn hoá dân tộc, đồng thời
bản thân nó cũng là một kết quả, tức là các nguồn khu vực của văn hoá các dân tộc
có thể được loài người cùng hưởng cùng sở hữu. Nhưng nó tuyệt nhiên không có nghĩa là sự mất đi của các nền văn hoá
dân tộc để hình thành nên một
thứ văn hoá có tính toàn cầu thống nhất, liên thông, phổ quát”
Như vậy, toàn cầu hoá văn hoá đã tạo ra những cơ hội, thách thức và rủi ro đối với
các nền văn hoá khác nhau trong việc
quảng bá nền
văn hoá của
mình ra bên ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá, các nền văn hoá
đều bình
đẳng, giao lưu với nhau trong thế bình đẳng, đều có những chỗ “mạnh”,
những chỗ “yếu”, đều có “quyền”
tự do nhìn nhận,
lựa chọn, thử nghiệm để tiếp nhận từ “kẻ khác” những gì mà họ muốn tiếp nhận.
Tuy nhiên,không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa với những mức độ
giống nhau và đều
được bình đẳng
như nhau. Khi tham gia vào toàn cầu
hóa, các nước
phát triển
có rất nhiều lợi
thế.Phần còn lại
của thế giới thì chịu
thiệt thòi về
nhiều mặt và gặp
nhiều thử thách.Mặc
dù vậy, trong thế
giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn
toàn toàn cầu hóa
hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu
hóa.Vấn đề đối với
tất cả các nước
đang phát triển.
đặc biệt là các nước
kém phát triển,
là phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để
vượt qua thử thách và chớp
lấy thời cơ; trong quá trình hội
nhập thế giới, phải có ý thức,
giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn
vẹn lãnh
thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phồn
vinh” (8*)
V-VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG VĂN HÓA
Càng ngày người
ta càng nhận
thức rõ tầm
quan trọng, quá quan trọng
của văn hóa.Có thể
nói “Vai trò” và “Chức
năng” Văn Hóa giữ
vai trò quyết
định toàn bộ
“Sinh Mênh” con người,xã hội, dân tộc, quốc gia và nhân loại.
Vấn đề là chúng ta có “quán chiếu sâu sắc” nhận thức rõ vai trò và chức
năng văn hóa để
“hiện thực” và “diệu
dụng” văn hóa trong thời
đại của chúng ta hay không?!
A/ VAI TRÒ VĂN HÓA:
Văn Hóa có các vai trò chính yếu sau đây:
1-Văn Hóa giữ vai trò khai sáng trí tuệ con người.Không những trên
phương diện Triết học, Văn học, Luật học,
Khoa học mà còn trong Chính Trị học, Văn Hóa học
…
2-Văn hóa có vai trò chủ động đấu tranh,giúp con người
làm chủ
thiên nhiên, làm chủ xã
hội, vượt thoát, giải
thoát chính con người mình…hòa
đồng cùng vũ trụ,
vạn hữu.
3-Văn hóa giữ vai trò:Truyền
sinh:SỐNG CÒN NỐI
TIỀN HÓA
4- Văn hóa có vai trò: Chống cái
ác, Phát huy cái thiện,
dẫn đưa con người tới Chân Thiện Mỹ.
5- Văn Hóa có vai trò :Tôn vinh Sự Sống, Bảo tồn Sự Sống, Phát Huy Sự
Sống,Thăng hoa Sự Sống và Thành toàn Sự Sống con người, Dân tộc,
Quốc gia và Nhân loại, Liên hành tinh.
Ngoài 5 vai trò chính yếu trên, Văn hóa còn có các
chức năng có tính cách đa năng, đa hiệu như sau
B/: CHỨC NĂNG VĂN HÓA
1-Văn hóa có chức năng tìm tòi,học hỏi thảo luận nghiên cứu.
2-Văn hóa có chức năng “Úng xử” với tha nhân,
“Thích nghi” với mọi hoàn cảnh…
3- Văn hóa có chức năng “Sáng tạo”, “Phát huy sang kiến”, “Phát minh” Khoa Học Kỹ Thuật.
4 Văn hóa có chức năng “Giáo
dưỡng” “Giáo hóa” con người.
5- Văn hóa có chức năng tạo ra “Xung đột” “Đối kháng” “Mâu thuẫn”
“Tán tụ”
“Bảo thủ” “Tiến bộ” theo qui luật “Âm Dương” “Sinh Khắc Chế Hóa”.
6- Văn hóa có chức năng “Điều hợp” “Hóa giải” mọi mâu
thuẫn trong cuộc sống.
7- Văn hóa có chức năng “Chuyển hóa” thời cuộc. “Thăng hoa con người” và “Thăng hóa xã hội”
8- Văn hóa có chức năng “Thẩm thấu” sâu rễ bền gôc tạo nên Thuần Phong, Mỹ Tục
của mỗi Dân Tộc…
9-Văn hóa có chức năng “Hội nhập” con người vào hoàn cảnh
mới, cộng đồng mới…
10-Văn hóa có chức năng “Vượt thoát” và “Sáng Hóa”
11- -Văn hóa có chức năng “Chọn lọc”, “Tiếp thu” tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác,đồng thời “Đào thải” những cổ hủ
lỗi thời.
12-Văn hóa có chức năng “Hiện đại hóa” xã hội thời đại.
VI-SỨ MẠNG VĂN HÓA
VIỆT NAM TRONG THỜI
ĐẠI TOÀN CẦU HÓA.
Có
người quan niệm rằng
“văn hóa thì “trường cửu”, còn
chính trị
là “nhất thời” rồi đi đến quan niệm: Cần phải tách “chính trị” ra khỏi “Văn hóa”
…Nhận định trên văn hóa có giá trị trường cửu hơn chính trị thì đúng, nhưng nhận định thứ hai “Tách chính trị ra khỏi văn hóa
lại là sai! Văn hóa và chính trị tuy là hai bộ môn có những điểm khác nhau, nhưng lại có
nhiều điểm giống
nhau nhất là về mục đích và cứu cánh.Hơn thế nữa Văn hóa còn là “nguyên lý” “nguyên tắc” hướng dẫn chính trị, phục sự con người. Chỉ có nền
chính trị vô nhân, vô đạo như chính trị độc tài “quân phiệt” độc tài “giáo phiệt”kiểu độc tài
Hồi giáo cực đoan” hay chính
trị “độc tài toàn trị cộng sản” mới lợi dụng văn hóa, dùng văn hóa là công cụ phục vụ “chính trị” bá đạo thì không kể. Trong trường hợp nàyVăn
hóa bị “tha hóa” bởi chính trị và cả
hai “văn hóa” cũng như “chính trị” đều bị suy đồi…Không còn là văn hóa,chính trị tiến bộ hay văn hóa chân chính nữa.Chúng
ta không bàn đến
loại “văn hóa suy đồi” ở đây.
Trở về văn hóa
chân chính tiến bộ, chúng ta đã nhận
định văn hóa có chức
năng và vai trò vô cùng quan trọng như đã
nói trên, nên văn hóa có “Sứ
mệnh” là điều
hiển nhiên và tất
yếu, không ai có thể
phủ nhận được..
A/Sứ mệnh Văn Hóa theo kinh Dịch:
Theo học giả Nguyễn Đăng Thục, nguyên nghĩa danh từ
Văn hóa của
tây phương có thể
tìm thấy ý nghĩa tương đồng rút từ “Lời thoán”
của Kinh Dịch: “Quan thiên văn dĩ sát thời biến, quan nhân
văn dĩ hóa thành thiên hạ” (Nhìn hiện tượng trên
trời để xét sự biến đổi của
thời tiết. Nhìn hiện
tượng của nhân quần
xã hội để hóa nên thiên hạ,
thay đổi thế giới) Theo cái nhìn của
Kinh Dịch: Văn hóa có chức
năng và sứ
mạng thay đổi nếp sống con người và thay đổi cả vận mạng thế giới.Sứ mạng văn hóa chỉ tóm gọn như vậy thôi. Lối nói của Kinh Dịch là lối nói “cô đọng” “hàm súc” ít lời
mà nhiều ý, đòi hỏi chúng ta phải
trầm tư sâu sắc
mới lĩnh hội được hết ý tứ
của người xưa! (Xin xem định nghĩa văn hóa thứ hai trong bài
“Bàn về 25 định nghĩa văn hóa của Chu Tấn cũng
trong tuyển tập này)
B/ Sứ mạng Văn Hóa theo Lý Thuyết Gia Lý
Đông
A:
Cụ Nguyễn Hữu Thanh tức Lý Đông A (9 *) Tổng Thư Ký
của Đảng Đại Việt Duy Dân và cũng là nhà Văn Hóa lớn của Việt Nam, thế giới có đưa ra 5 lời
thề cho các chiến
sĩ cách mạng
của Đảng Đại Việt Duy Dân như sau:
·
Thề Giác Biện chứng
Lớn
·
Thề Tu Tính Mệnh Ta
·
Thế
Cứu Nòi Giống
Việt
·
Thề Thương Loài
Người Khó
·
Thề Cùng Vũ Trụ Hòa.
Qua 5 lời thề trên
tuy Lý Thuyết gia Lý Đông A không nói đến
danh từ “Sứ mạng văn hóa” nhưng xét vào nội dung
5 lời thề nói trên,đích thực chúng ta thấy đây là 5 sứ mệnh lớn của Văn Hóa Chính Trị
Việt Nam.
Lời Thề 1: Thề Giác Biện
Chứng Lớn:
“Biện chứng Lớn” ở đây không phải
là “Biện chứng pháp Duy Tâm” ( “Idalistic dialectic” của Hegel) hay “Biện Chứng Pháp Duy Vật”
(Materialistic dialectic” của Karl Marx) mà là Duy Dân Tung Hợp
Biện Chứng của Lý Đông A).
Lời Thề 2: Thề Tu Tính Mệnh
Ta.
Các cụ ta xưa có câu: “Từ
Thiên tử
(Vua) cho đến thứ dân ai ai cũng phải
lấy việc TU THÂN làm gốc ( Tu thân vi bản)
Lời Thề 3: Thề Cứu Nòi Giống
Việt:
Dân tộc Việt Nam bị “linh lạc” bị “điêu linh thống khổ” dưới ách đo hộ Tầu, thực dân
Pháp-Nhật, rồi C.S nên rất cần phải cứu nguy.
Lời Thề 4:Thề Thương Loài Người
Khó:
Chỉ đại đa số nhân loại bị nghèo khổ áp bức bóc lột trên toàn thế
giới
Lời Thế 5:.Thề Cùng Vũ Trụ Hòa:
Chỉ khi nào người dân Việt chúng ta hoàn thành được
4 lời thề trên,
tâm hồn mình mới được thảnh thơi,tự tại hòa đồng cùng
Vũ Trụ
Năm lời thề của Lý Thuyết Gia Lý Đông A lớn lao thay! Vĩ đại thay! Cao cả vô cùng….Đây cũng chính là SỨ MẠNG CAO TỘT CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM.Lý thuyết
gia Lý Đông A còn gián tiếp, bí nhiệm khuyên chúng ta: “ SINH
MÊNH VIỆT NAM LUÔN GẮN BÓ VỚI SINH MÊNH NHÂN LOẠI
KHÔNG THỂ
TÁCH RỜI.”.
C/ Sứ Mạng Văn Hóa
theo Học Giả Hồ Hữu
Tường:
Trong cuốn Tương lai Văn Hóa Việt Nam Học giả
Hồ Hữu Tường đã định
nghĩa “Văn hóa là cái gì làm cho con người trở thành NGƯỜI
(Chữ Người viết Hoa) Theo định
nghĩa này thì sứ
mệnh văn hóa Việt
Nam sẽ vô cùng cao quí và lớn lao. Hiện nay dân số Việt Nam ở
trong nước là 95 triệu
người (Quốc nội và Hải
ngoại) xấp xỉ 100 triệu người.Nếu trong tương lai văn hóa VN có thể
đào luyện cho 100 triệu
người dân thường
đều trở thành 100 triệu
CON NGƯỜI (Viết Hoa) thì nền
văn hóa chính trị
Việt Nam sẽ hùng mạnh
vinh quang và rực
rỡ đến như thế nào….(Đây là “dự phóng” hay “giấc mơ văn hóa”
của học giả Hồ Hữu Tường. Xin tất cả
độc giả và toàn dân Việt
Nam đều nên lắng
nghe, chia sẻ và góp phần
vào sứ mệnh văn hóa cao cả vĩ đại này.
(Xin xem lại định nghĩa văn hóa thứ 6 của học giả
Hồ Hữu Tường trong bài “Bàn về
25 định nghĩa văn hóa của
Chu Tấn).
D/ Sứ Mạng Văn Hóa
theo Văn Hào André Malraux:
Nhà văn hào Pháp André Mailraux
(10*) có định nghĩa Văn hóa như sau:“Văn hóa là tất cả các hình thái của
nghệ thuật, tình yêu và suy nghĩ, những thứ mà trong sự
tồi tệ cũng như trải qua bao nhiêu thế kỷ đã
khiến cho con người trở nên ít nô dịch hơn”
Trong định nghĩa này
nhà văn hào André Malraux tuy xác định văn hóa
có sứ mạng giải phóng con người, thoát khỏi các chế độ và tất cả các hình thức “nô dịch” con người Nhưng tác giả tỏ ra rất bi
quan là qua tác dụng
và hiệu năng văn hóa trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến con người
trở nên ít nô dịch
hơn!” Có nghĩa là “Thân phận con người- “Condition humaine” trong nhân loại cho đến thế
kỷ 20- thời đại mà André Malaux đưa ra định nghĩa
văn hóa vừa
nói- Con người
vẫn còn bị
các hình thức
“nô dịch”
tồi tệ chưa hết được!Phải thế không?
Thấp hơn hay đặc biệt hơn, Văn hào Albert Camus định
nghĩa “Văn Hóa là tiếng khóc của con người khi đối diện với số phận”
Văn hóa chỉ có tính cách “phản ứng”lại bằng “Lời than” hay “tiếng khóc”thôi sao? Điều này chúng ta không lấy làm lạ vì Albert Camus còn là
triết gia theo triết thuyết Hiện sinh-
Ông cho “cuộc
đời là phi lý”-nhưng không bnông xuôi theo số phận mà chống lại số phận, phản kháng lại số phận bằng
bất cứ biểu hiện nào…dù là “Lời
than hay tiếng khóc”…cũng là cách phản kháng ….(11*)
Cùng quan tâm, suy tư về “Sứ mạng Văn Hóa” song Lý thuyết
gia Lý Đông A và học
giả Hồ Hữu Tường thì hoàn toàn tin tưởng và
“lạc quan”. Trái lại hai văn hào
André Malraux và Albert Camus thì quá “dè dặt và
bi quan”….Vậy
người làm văn hóa trong thời đại chúng
ta nên có thái độ nào?
Thiết nghĩ, từ cuối thế kỷ 20 và bước sang đầu thế
kỷ 21 chúng ta đã kinh qua bốn biến cố lịch sử lớn sau đây:
Một là:
Cuối
thế kỷ thứ 20 nhân loại
đã bùng nổ cuộc cách mạng truyền thông- Internet- có tác dụng thu hẹp không gian và rút ngắn thời gian:Chỉ một biến cố nhỏ xẩy ra-tân Phi Châu hay châu Đại dương –mấy phút sau đã trở thành tin tức lan truyền khắp thế giới,…
Hai là: Năm 1989 chế độ CS tại các
nước Đông
Âu và đế quốc CS Liên Sô sụp đổ, chấm dứt
thời kỳ chiến tranh lạnh và đã đánh dấu thời điểm “cáo chung chủ
thuyết sai lầm không tưởng
Mac –Xít”.
Ba là: Vào đầu thế kỷ 21 đánh dấu kỷ nguyên “Toàn Cầu hóa” từ văn hóa, chính trị, kinh tế, thương mại…vv…
Bốn là: Năm 2011 “Đợt sóng
dân chủ thứ tư” đã chính thức bùng phát và trào dâng
trên toàn thế giới… Với bốn biến cố lịch sử này nên “Độ gia tốc chính trị
Văn hóa”đã tiến rất nhanh, không còn trì trệ
như trước nữa .Đây là 4 chứng
cứ lịch sử hùng hồn
nhất, cho phép chúng ta khẳng định người làm văn hóa trong thời đại hiện tại, không chỉ có niềm tin lớn,mà còn có thái độ
lạc quan có tính cách viễn kiến, thống quan và được kiện chứng bằng thực tiễn lịch sử.Chúng ta cần
quan niệm “Sứ mạng Văn Hóa” quan trọng và lớn lao này, nhịp theo đà
tiến của Lịch Sử Văn Hóa Toàn Cầu
Hóa.
E/ Văn Hóa Việt Nam Trong Thời Đại “Toàn Cầu
Hóa”:
Có các sứ mệnh sau đây:
·
Khai
sang trí tuệ con người, hình thành Minh Triết nhân
loại.
·
Giáo
hóa con người.
·
Làm
cho cuộc sống lên hương, làm cho cuộc đời thêm tươi thêm đẹp.
Văn hóa đem lại nguồn vui sống cho con người.
·
Thăng
tiến con người, phát triển,
thăng hóa xã hội trên mọi phương diện.
·
Văn
hóa có sứ mệnh Diệt cái Ác để
mưu cầu Tự Do Dân Chủ
và Nhân Quyền cho con người và
Xã Hội.
·
Văn
hóa có sứ mệnh khuyến khích con người
làm việc
THIỆN, phụng sự Con Người, Xã Hội,Tổ Quốc và Nhân Loại,
Liên Hành Tinh.
·
Giải Phóng
con người ra khỏi mọi chế độ độc tài và nhiều
hình thức
“nô dịch”
“nô lệ
hóa” con người.
·
Thiết dựng chế độ dân chủ
(Tam quyền phân lập)
trên qui mô thế giới, làm nền
tảng căn bản tiến tới chế đô “Nhân Chủ Quốc Gia” và“ Nhân Chủ
Toàn Cầu”
·
Văn
hóa có sứ mệnh gin giữ hòa bình và xây dựng nền Thái Hòa Nhân Loại
·
Sau
cùng Văn Hóa có sứ
mệnh khó khăn nhất và cũng cao đẹp nhất là giúp con người
TỰ VƯỢT MÌNH VÀ TỰ THẮNG CHÍNH MÌNH
VII- KÊT LUẬN:
Từ thời cổ đại, nhân loại đã khám phá ra sức
mạnh hay sứ mạng của Văn Hóa.Tuy nhiên theo bản chất
văn hóa nặng
về phần TRI (Lý thuyết)
còn Chính trị nghiêng về phần
HÀNH.(hành động,
thực hiện) nên trong thời
quân chủ
vẫn thường diễn ra tệ trạng: “Minh quân’(Vua sáng suốt)
thì ít còn “Hôn quân” (Vua
u tối) thì nhiều, “Thanh
quan” thì ít còn “tham quan ô lại” thì nhiều! Ngay cả
sang thời đại Dân Chủ vẫn có một số nước
theo chế độ tài kiểu
độc tài “Quân phiệt”
độc tài “Giáo phiệt”
kiểu Hồi giáo cực
đoan” hay nền chính trị
độc tài toàn trị
Cộng Sản!!! Chính vì chính trị
lấn át Văn Hóa, bắt
Văn hóa phải làm “công cụ” cho chế độ độc tài nên “Sứ mạng văn hóa” vẫn chưa được phát huy đúng mức….khiến
nhà văn hào Pháp André Malraux đã phải than thở : “Thân
phận con người” (Condition humaine) trải qua bao
nhiêu thế
kỷ vẫn còn bị
tình trạng “Nô dịch”
hay chính trị
“Nô lệ
hóa con người
Tuy
nhiên tình trạng tồi tệ này không thể
là mãi mãi! Lịch sử phải sang trang….
Bước sang thế kỷ 21 nhân loại đã tiến sang thời đại
“Toàn cầu
hóa Kinh tế” “Toàn cầu hóa
Chính tri” và “Toàn cầu
hóa Văn Hóa: nên vấn đề “SỨ MẠNG VĂN HÓA” cần phải làm sáng tỏ
và tiến hành một cách dũng mãnh hơn ..Chúng ta khẳng định “Văn hóa Việt Nam có sứ mênh “Diệt cái Ác để mưu cầu Tư Do, Dân Chủ
và Nhân Quyền cho Con Người và
Xã Hội…
Văn hóa có sứ mệnh thiết dựng chế độ Dân chủ (Tam quyền phân lập) trên qui mô toàn thế
giới, làm nền
tảng căn bản tiến tới chế độ “Nhân chủ Quốc Gia” và “Nhân Chủ
Toàn Cầu” không là lời lẽ “khoa trương” hay “cường điệu” mà là thông điệp
Văn Hóa “Minh Nhiên”, “ Tự nhiên” vậy../
CHU TẤN
Tài Liệu Tham Khảo
(1*).Vấn đề nông dân đầu thế kỷ 21- Nguyễn Minh Cần (Nguồn: Đài RFI ngày 7-09-2012)
(2*) Phỏng Vấn Ông Trần Quang Thành
về “Công
Đoàn Độc Lập” (Nguồn: Đài RFA)
(3*) Vua
Nghiêu: (2337 TCN-2258 TCN )-Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia
(4*) Kim Dịnh (Nguồn: Newvietart.com)
(5*) Tần Thủy Hoàng
(259-TCN -210 TCN) –Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(6*) Sự quan trọng của Thể chế chính trị trong đời sống
con người- Chu Chi Nam-(Nguồn: Đối Thoại
08-6-2014)
(7*) Tại sao chúng
ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống
giặc ngoại xâm- Chu Chi Nam (Nguồn: Đối Thoại 08-6-2014 )
(8*)Hue.edu./vn/vi/id129
Nhìn nhận thế nào về Toàn Cầu Hóa Văn Hóa- Đặng
Thị Minh Phương…
(9*)Tiểu Sử Lý Đông A (1921-1947)
Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(10*) Tiểu
Sử André Malraux (1901-1975) Bách khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(11*) Thuyết Hiện Sinh qua Tư Tưởng các Triết Gia-Võ Công Liêm- (Nguồn:NEWVIETAR.COM
)
·
Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay
xấu và tùy thuộc cơ chế chính trị xưa và nay như thế nào?
·
Vai trò và chức năng Văn Hóa.
I I. TƯƠNG QUAN
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ:
·
Ngược lại khi Chính trị “không song hành”,
“không thuận chiều” theo
văn hóa, mà vì quyền lợi của cá nhân, phe nhóm, hay đảng phái lợi dụng khi nắm được chính quyền lũng đoạn chính trị, biến chính trị thành vai trò THỐNG SOÁI LÃNH ĐẠO tất cả, coi văn hóa, kinh tế giáo dục, pháp luật đều chỉ
là “công cụ” của Chính tri thì đây là ĐẠI THẢM HỌA của Quốc Gia Dân Tộc.Nếu nền chính trị độc tôn, độc tài toàn trị này lại nhân danh một Ý Thức Hệ (Như ý thức hệ Cộng sản),
đề cao “cách mạng bạo lực”, “thượng tôn giai cấp cầm quyền” theo chủ
trương “vô sản chuyên chính”thì nền chính trị này không còn là nền chính trị phục vụ con người, phụng sự Tổ Quốc mà là nền chính trị phản dân hại nước, đầy đọa con người, giam hãm con người trong địa ngục
trần gian, gieo rắc đau thương đói khổ kinh hoàng cho dân cho
nước,tai họa không thể nào kể xiết đươc.
·
Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay xấu xưa và nay như thế nào?
Hai là quan chẳng thiết gì
dân
“Ếch kêu dưới vũng tre ngâm
“Nông dân là khối người đông đảo chiếm đến trên
70% dân số
cả nước.Khi chưa chiếm được chính quyền Đảng CS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, gọi nông dân là «hậu bị quân», là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng” để họ “sướng cái bụng” đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng
của mình hết lòng ủng hộ ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi cách mạng thành công, ĐCS sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là “người cày có ruộng”! Nhưng
thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông dân nước ta!
Đến quả lừa “vĩ đại”, tồi tệ nhất của
ĐCSVN đối với nông dân và nói chung cả với toàn dân ta, là… khi soạn thảo và thông qua Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, bằng điều 19 của Hiến
pháp, ĐCS đã nhẹ nhàng,
gần như thầm lặng,
không “long trời lở đất” tí
nào, chuyển
quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái
gọi là “sở hữu toàn dân”! Từ đây, thực
tế ĐCS đã “quốc hữu hóa”, hay nói chính xác
hơn “đảng
hữu hóa” ruộng đất của nông
dân và nhân dân. Từ
đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa
bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của
ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước….” (1 *) Từ đây dẫn tới hiện tượng DÂN
OAN….. lại
càng bi thảm gấp bội, gây
bao đau thương cho nhân dân không bút nào tả xiết ….
Theo
ông Trần Quang Thành một đảng viên
CS đã bỏ
đảng trốn ra nước ngoài để vận động Quốc tế yểm trợ cho việc thành
lập Cộng Đoàn Độc Lập ở trong nước, đã
cho biết về số phận
người công nhân dưới quyền thống trị của CS hiện nay như sau:
Sau
đó 1 tuần
tại Warsaw, thủ đô nước Cộng Hòa Ba Lan,
chúng tôi đã tổ
chức hội nghị về quyền lao động quốc tế gồm trên 70 thành viên,gồm cộng đồng người Việt và quan khách Quốc Tế trong nhà
Quốc hội Ba Lan.
Mục đích của cuộc họp đó
để yểm trợ Công Đoàn độc lập trong nước.Cuộc họp đó được chính phủ Ba Lan hết sức ủng hộ, ngồi ghế
chủ tọa là
ông Phó chủ
tịch Cộng đoàn Đoàn kết và ông Chủ
Tịch Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận.
Nhưng
một
điều đáng tiếc là sau khi Việt Nam họ gia nhập tổ chức WTO và họ tổ chức thành
công hội
nghị APEC tại Hà Nội thì họ nuốt lời hứa và quay ra đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn
của
công nhân. Những người sáng lập và
cổ
vũ cho nghiệp đoàn như là luật Sư lê Thị Công
Nhân, Luật
Sư Nguyễn Văn Đài đều bị bắt. Anh Lê Trí Tuệ là Phó chủ Tịch Công
đoàn độc
lập bị truy đuổi và sau đó phải trốn chạy sang Cam Pu Chia,
nhưng cũng bị nhà cầm quyền Việt nam bắt và đến nay không
rõ tung tích.
Ngoài
ra chúng tôi cũng nói rõ cho thế giới biết rằng hiện nay Việt Nam có Tổng Liên
Đoàn Lao Động
Việt Nam, nhưng họ là cánh tay nối dài của Đảng Cộng sản. Tổng liên Đoàn Lao Động Việt nam từ khi ra đời từ năm
1946 đến giờ chỉ giữ vai trò thay mặt đảng kiềm tỏa người công nhân chứ không tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân !!!
B1-
Thời
Quân Chủ Phong KiếnXưa:
Nếu bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện
pháp chế tài! Mà khi đã dùng đến biện
pháp chế tài thì có nghĩa là đường lối,
tôn chỉ Đế Đạo đã thất bại
!!?? “Lý tưởng Đế Đạo đã bị sụp đổ !! Đế Đạo chưa bao giờ nếm
mùi thất bại và sụp đổ, lý
do dễ hiểu vì Đế Đạo chưa bao giờ được thực hiện trên trái đất- bất kỳ ở Đông hay Tây Phương! Đế Đạo thực chất chỉ có
trong tưởng tượng hay trong ước mơ của loài người! Dẫu sao Đế Đạo cũng đem lại
cho người đời một GIẤC MƠ ĐẸP không kém GIẤC MƠ THIÊN ĐƯỜNG...
Trong
thiên Thái Bá sách Luận ngữ, Khổng Tử ca
ngợi Đế Nghiêu: “làm vua như Nghiêu thật là vĩ đại!
Thật là cao quí thay! Chỉ có trời là cao lớn nhất, cũng chỉ có Nghiêu thật là
người biết đựa vào đạo trời.Công đức vua Nghiêu to lớn không cùng,dân chúng không thể ca ngợi cho xiết . Công lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ lễ nhạc do Nghiêu đặt ra
vô cùng sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi”
B/VƯƠNG ĐẠO:
Nắm chủ trương then chốt đó rồi ta dễ
dàng hiểu những câu khác.Chẳng hạn
câu “Thiên mệnh mỹ thường”trong
Kinh Thi, thiên Đại Nhã, thiên mênh không phải trường tồn,
có đức thì còn, mất đức
thì hết, vì quyền bính thuộc người Hiền Đức chứ
không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc nhở luôn dưới
nhiều hình thức.Mạnh Tử
nói:“Lập hiền vô phương”,(IV B.20) cắt đặt người hiền
thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết: “Tam đại
chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ giả dĩ bất nhân” “Ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất
thiên hạ vì không có đức nhân:.Nhà Hạ lên
với Vũ có nhân, mất với Kiệt bất
nhân. Nhà Thương được thiên hạ với
Thành Thang có nhân, mất thiên hạ với Văn Võ, Châu Công nhân đức, mất
thiên hạ với U lệ bất
nhân (Mạnh,VII3) Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú
trọng tài đức mà không kể đến dòng họ.Trọng
Cung có tài đức mà không được dắc dụng
chỉ vì thuộc tầng lớp thường
dân. Khổng ví Cung với con bò tơ sắc đỏ sừng tốt (đủ đều kiện để tế) người ta
không dám dùng để tế vì mẹ nó lang, nhưng thần
sông núi có từ đâu? (L.N.VI.4) Theo chủ trương kế hiền thì Trọng Cung không những nên
cử làm quan mà cả đến
làm Vua “Ung giả sử nam diện” Trò
Ung (tức Trọng Cung) có thể bầu
làm Vua(L.N.VI.1).Ông thường khen Tử Lộ mặc dầu áo
thường cũng không ngại đứng
vào hàng đại thần (L.N.IX.25) và hy vọng lớn nhất của
ông đặt vào một người
bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ tức
Nhan Hồi.Cũng trong tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức
quan Đại Thần.Do đó
ông đặt việc Vua Nghiêu sợ ông
Thuấn không ra giúp mình, Thuấn sợ
ông Cao Dao bất hợp
tác(Mạnh III.4) Trọng Cung vấn
chính viết “tiên
hữu ty, xá tiểu
quá, cử hiền tài” (XIII.2) Dưới
con mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là
thời nhiếp chính của
ông Chu Công.Trong L.N.XIV.20 hỏi tại
sao Vệ Linh Công vô đạo mà
nước còn? Được trả lời là
tại biết giao cho quan đại thần
cai trị (Trọng Thú Ngữ giữ ngoại
giao, Chúc Đài giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ
binh) vì thế mà nước còn.Đó là chủ trương “quan cai tri vua kiểm soát”tức sự
quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải
trung với đạo chứ không trung với cá
nhân vua “dĩ đạo sư quân, bất khả tắc chỉ”
(L.N.XI.23) Chủ trương đó sau này Mạnh Tử đặt nổi bằng
câu “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” hoặc
câu của Tuân Tử “Trụ bạo quốc
chi quân nhược tru độc phu”(Tuân
Tử chính luận) giết
vua tàn bạo cũng như giết kẻ độc
phu (chẳng thần thánh gì)” Thật là
sớm sủa khi ta so sánh với sự
kinh hoàng của bao người Tây Phương coi việc giết Louis XIV
như một tội phạm sự
thánh.Chung qui đó là hậu quả của
thuyết kế Hiền.
Chủ trương cử hiền tài như trên thật đúng
là Tinh Thần dân chủ chỉ chưa có phổ
thông đầu phiếu.Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học cố gắng
giật cái độc quyền học thức ra
khỏi tay phái quyền quí để mở rộng
ra trong quần chúng, không phân biệt
quí tiện: “Hữu
giáo vô loại”(l.N.XV.38) trong việc
giáo hóa không có phân biệt giai cấp
quí tiện sang hèn. Với chúng ta hiện
nay, điều này quá tầm thường
nhưng đời Khổng thì đó là một cuộc
cách mạng tận nền.Điều đó dễ hiểu
khi ta nhận xét bên các nước Âu
Mỹ có tiếng là tiên tiến mà
mãi tới năm 1850 mới mở cửa
giáo dục cho toàn dân, Còn trước
kia dành riêng cho quí tộc (C.C 152) Như thế ta thấy việc của Khổng
thật là táo bạo sớm sủa và
là một cú chí tử đánh
vào thể chế “Quyền
quý thế tập” dưới con mắt của họ việc nhận người
nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy
cai trị là một việc
phá rối quốc gia. Đời
ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng,
số người chống đối vì
thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối
chí Khổng Tử là dạy đời
không biết mỏi mệt (Hối
nhân bất quyện) nên mới
gây ra nhiều phản đối
pháp gia chủ trương giữ độc
quyền giáo dục cho quyền
quý thế tộc.
Nguyên tắc Thứ Ba: Phú Chi
Nguyên
tắc quân phân tài sản đó
sau này được Mạnh Tử
phát huy rộng trong chủ trương “Minh quân chế dân chi sản”
(I,6) bậc minh quân phải lo phân chia tài sản đều
cho dân (đọc thêm Mạnh 1,12,36, 38) và làm
cho dân giàu thì nước mạnh.Và nhân đấy
ông đề cao phép tỉnh điền cũng
như Nho giáo chống đối việc
bán đất mà sau này đời nhà Tần,
Thương Ưởng đã cho phép (Zanker 193.
C.A Maspéro314) Cho bán đất tức
coi đất là của riêng (thiên hạ vi
gia) và nếu coi là công thì
phải để chung rồi cứ thời hạn mà
phân phát “Quân cấp”đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng
không được giữ quá 10 mẫu thời Trần
bên ta là hậu quả của
thuyết quân phân này. Gọi là
công điền hay là đất của
Vua chỉ khác danh từ mà thôi.Nhiều người tỏ ý mỉa
mai những luật cấm
không ai được tậu đất
làm của tư kẻo mất
quân bình. Mà không thấy rằng từ khi
bãi bỏ thể chế đó đã cho phép mua bán đất (Đời Tần)
thì sự chênh lệch trở
thành quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông nô cơ cực
làm cớ cho cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ
còn 5% (Xem chẳng hạn
Histoire de la Chine de rené Grousset: 77,114, 208, và 353) Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi
một thể chế được bảo trợ là
vì nó gây điều kiện thuận lợi
cho chủ trương Vương đạo.
Tuyên bố mọi đất của Vua tức là
một lối thi hành câu “Thiên hạ vi
công” nhờ đó“Người 50 tuổi có
lụa mà mặc, 70 tuổi có
thịt mà ăn (Mạnh Tử
VII.22) Những cải cách điền địa hiện
nay, những khẩu hiệu “đất đai
thuộc người cày người cấy” tuy
khác thể chế mà tinh thần đều là
“Hoạn bất quân” của người xưa vậy.Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.
Con
người hễ đã
giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao
lên.Bởi vậy tiếp
theo chương
trình “giáo chi”, “phú chi”ông chủ trương lễ tri “Đạo chi dĩ chính, tề chi
dĩ hình, dân miễn vô sỉ.Đạo
chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thá cách”Dùng chính trị
hình luật mà cai tri thì dân mới chỉ biết
tránh phạm luật, dùng đạo đức và
lễ nhạc dân mới
trau dồi nhân cách”
Trước
kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này mới mở rộng đến
toàn dân. Đó là việc làm của Thưởng Ưởng
nhưng người cổ động đâu
tiên là Khổng Tử (C.A. Maspéro P.95) Và lễ gia
tiên,ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau
nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới
toàn dân không phân biệt sang hèn (R. Grousser, Histoire de la Chine (P.15). Như
thế không thể bảo Khổng Tử
phân biệt qúy tiện, mà chính ông là người muốn đại
chúng hóa lối cai trị bằng Lễ.
Nguyên Tắc Thứ Năm:Thành
Tín
Thân
hữu có thể đọc đầy đủ
trong KIM ĐỊNH
Nho giáo nguyên Thủy )
(4*)
+ Quân chủ Pháp trị= (luật Pháp do nhà Vua và quan
lại triều đình tự lập ra- Tất nhiên không có ý kiến của dân chúng)
B-2
Thời Đại Dân Chủ Nay
Trong
chế độ dân chủ gián tiếp,
người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa Kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh, và phần lớn
các quốc gia trên thế giới.Người ta
cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống
chế, nửa đại
nghị chế như ở bên Pháp.
Thề chế
chính trị giữ một
vai trò quan trọng trong sự phát triển đời sống
con người. Vì vậy có người ví
thể chế chính trị như mảnh đất và người dân như hạt mầm.Con
người dù là da vàng, da trắng
hay da đen
có thể ví như hạt mầm, nếu hạt mầm
này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống dưới một chế độ tốt,chế độ tôn
trọng con người, những
quyền căn bản của
con người được bảo đảm, đồng
thời được hướng dẫn ,
dìu dắt bởi một nền
giáo dục tốt, một hệ thống
an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm
này sẽ kết bông nẩy trái… người
dân sẽ sống trong an lạc hạnh
phúc...Điển hình như quốc gia Nam Hàn. Từ khi
chế độ độc tài chuyển sang chế độ dân chủ đất nước đã vô
cùng phát triển:
Được như vậy tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một
trong những lý do chính đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tư
do, dân chủ, mặc dầu chế độ này mới được thiết lập vào khoảng
thập niên 80..
B-Chế Dộ Độc
Tài Toàn Trị Cộng Sản:
Nhìn
vào lịch sử cận đại,2
chế độ cái loa, cái còng và cây súng là chế độ độc tài phát xít Hitler và chế độ cộng sản. Cả hai
đều dựa
trên quan niệm triết lý,tư tưởng bất
bình thường: Hitler cho rằng
chủng tộc Aryen là chủng tộc
tinh khiết, không pha trộn với những
chủng tộc khác Đây là một điều vô
cùng phản khoa học.Theo Hitler dân tộc Đức
tiêu biểu cho chủng tộc
này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới.Chính
vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại
phát động chiến tranh khắp nơi. Marx thì cho rằng lịch sử con
người là bạo động,
là đấu tranh giai cấp,không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn Thư Cộng Sản “Lịch sử
nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử đấu
tranh giai cấp”Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và
tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học,
như những người cộng sản bắt đầu bởi
Marx thường rêu rao “Khoa học lịch sử,
Khoa học biện chứng”Không
cần chứng
minh dài dòng, chúng ta chỉ nhìn chính chúng ta và
những người chung quanh, xét cuộc đời
thì chúng ta rõ:Bình thường con người muốn sống
hòa bình.Con người chỉ
dùng bạo động trong những trường hợp bất
bình thường.Điều này đúng với cả lịch sử của những
quốc gia.Marx và những
người cộng sản đã lấy
cái bất
bình thường làm cái bình thường,
nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất
bình thường,bệnh hoạn. Đấy lại chưa nói đến ngay từ lúc đầu,chế độ cộng sản, bề
ngoài thì mang nhãn hiệu “Thế giới đại đồng,
anh em cộng sản”nhưng bên trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan,
bành trướng. Bề
ngoài mang nhãn hiêu “Liên Bang các cộng
hòa xã hội sô viết (URSS), nhưng bên trong, Lenine, qua tay em của
mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc
trách về vấn đề các dân tộc chung quanh, bắt họ đi
theo Liên Sô. Bằng chứng
rõ ràng là khi đế quốc Liên Sô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc
này nổi lên đòi độc lập.
Sau
khi Liên Sô sụp đổ thì Việt Cộng
chạy sang thần phục
Trung Cộng, mở đầu bằng Hội
nghị Thành Đô tháng 3/1990, và không ngừng
ký những hiệp ước
dâng đât nhượng biển cho Trung Cộng.
Nhưng vì Trung Cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc,
nay lại được cấy vào vi trùng bất
bình thường Mác Lê, nên mộng
bành trướng càng ngày càng mạnh.
Mặc dầu cả 2
bên, lúc nào cũng rêu rao “Bốn tốt và
mưới sáu chữ vàng”nhưng đùng một
cái, Trung Cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền
lãnh hải Việt Nam.
Bởi lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt
Nam và Trung Hoa vẫn còn phải mang cái ách chế độ cộng sản, lấy lý
thuyết Marx làm nền tảng
cho chế độ kêu gọi đấu
tranh giai cấp, một lời
kêu gọi chiến tranh triền
miên, không những chiến tranh chính nội bộ, mà
còn chiến tranh với nước
ngoài, chừng đó hai dân tộc
không thể nào sống hòa bình với
các nước chung quanh và với cộng đồng
thế giới.
Vì vậy,ngày
hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát triển
hay phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại
trào lưu tiến hóa của con người là
như vậy.
Nước
Tàu và Việt nam hiện nay nói riêng và các nước phương Đông nói chung trong đó có cả các
nước Trung Đông, những nước
này đã có một nền văn minh rất sớm,hơn cả Tây
phương.Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài quá lâu.Ngày hôm
nay chế độ cộng sản ở Tầu và
Việt Nam cũng chỉ là một chế độ quân chủ phong kiến
trá hình.Chế độ cộng sản để rồi sẽ tắt
luôn như một nhóm lửa trước
khi tàn.
Đối với những
chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông cấm đoán
ngay cả những người phụ nữ làm
đủ mọi nghề, ra đường phải bịt mặt, tới chế độ cộng sản tước hết mọi
quyền căn bản nhất của
con người, người xưa có câu “Trễ còn hơn không” Hãy từ bỏ thể chế
chính trị quân chủ phong kiến, độc
tài cộng sản để bước
sang chế độ dân chủ tôn trọng
những quyền căn bản của con người, trong đó có
nam nữ bình quyền, tự do
tư tưởng và ngôn luận, thì mới hy
vọng theo kịp những nước văn minh. Gương Nam Hàn và Đài Loan cho ta thấy
rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước
sang chề độ dân chủ, thế mà
ngày hôm nay cả 2 nước đã có
thể sánh cìng với những nước văn minh khác trên thế giới.
“Toàn cầu hoá văn hoá có thể được hiểu là
quá trình văn hoá các dân tộc,
thông qua giao lưu, dung hợp, xâm nhập và bổ sung lẫn nhau, không ngừng phá vỡ tính hạn chế về khu
vực và về
mô hình của văn hoá dân tộc mình và trong sự
bình phán và chọn
lọc của loài người
mà đạt được sự hoà đồng văn hoá, không ngừng
chuyển các nguồn
khu vực của văn hoá dân tộc
mình thành các nguồn
hưởng thụ chung, sở hữu chung của loài người. Tuy nhiên,
điều cần chú ý là toàn cầu
hoá văn hoá là một quá trình bao gồm sự xung đột, giao lưu, dung hợp giữa các nền văn hoá dân tộc, đồng thời
bản thân nó cũng là một kết quả, tức là các nguồn khu vực của văn hoá các dân tộc
có thể được loài người cùng hưởng cùng sở hữu. Nhưng nó tuyệt nhiên không có nghĩa là sự mất đi của các nền văn hoá
dân tộc để hình thành nên một
thứ văn hoá có tính toàn cầu thống nhất, liên thông, phổ quát”
Tuy nhiên,không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa với những mức độ
giống nhau và đều
được bình đẳng
như nhau. Khi tham gia vào toàn cầu
hóa, các nước
phát triển
có rất nhiều lợi
thế.Phần còn lại
của thế giới thì chịu
thiệt thòi về
nhiều mặt và gặp
nhiều thử thách.Mặc
dù vậy, trong thế
giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn
toàn toàn cầu hóa
hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu
hóa.Vấn đề đối với
tất cả các nước
đang phát triển.
đặc biệt là các nước
kém phát triển,
là phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để
vượt qua thử thách và chớp
lấy thời cơ; trong quá trình hội
nhập thế giới, phải có ý thức,
giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn
vẹn lãnh
thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phồn
vinh” (8*)
Càng ngày người
ta càng nhận
thức rõ tầm
quan trọng, quá quan trọng
của văn hóa.Có thể
nói “Vai trò” và “Chức
năng” Văn Hóa giữ
vai trò quyết
định toàn bộ
“Sinh Mênh” con người,xã hội, dân tộc, quốc gia và nhân loại.
Vấn đề là chúng ta có “quán chiếu sâu sắc” nhận thức rõ vai trò và chức
năng văn hóa để
“hiện thực” và “diệu
dụng” văn hóa trong thời
đại của chúng ta hay không?!
A/ VAI TRÒ VĂN HÓA:
2-Văn hóa có vai trò chủ động đấu tranh,giúp con người
làm chủ
thiên nhiên, làm chủ xã
hội, vượt thoát, giải
thoát chính con người mình…hòa
đồng cùng vũ trụ,
vạn hữu.
1-Văn hóa có chức năng tìm tòi,học hỏi thảo luận nghiên cứu.
3- Văn hóa có chức năng “Sáng tạo”, “Phát huy sang kiến”, “Phát minh” Khoa Học Kỹ Thuật.
5- Văn hóa có chức năng tạo ra “Xung đột” “Đối kháng” “Mâu thuẫn”
“Tán tụ”
“Bảo thủ” “Tiến bộ” theo qui luật “Âm Dương” “Sinh Khắc Chế Hóa”.
7- Văn hóa có chức năng “Chuyển hóa” thời cuộc. “Thăng hoa con người” và “Thăng hóa xã hội”
9-Văn hóa có chức năng “Hội nhập” con người vào hoàn cảnh
mới, cộng đồng mới…
11- -Văn hóa có chức năng “Chọn lọc”, “Tiếp thu” tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác,đồng thời “Đào thải” những cổ hủ
lỗi thời.
B/ Sứ mạng Văn Hóa theo Lý Thuyết Gia Lý
·
Thề Tu Tính Mệnh Ta
“Biện chứng Lớn” ở đây không phải
là “Biện chứng pháp Duy Tâm” ( “Idalistic dialectic” của Hegel) hay “Biện Chứng Pháp Duy Vật”
(Materialistic dialectic” của Karl Marx) mà là Duy Dân Tung Hợp
Biện Chứng của Lý Đông A).
Các cụ ta xưa có câu: “Từ
Thiên tử
(Vua) cho đến thứ dân ai ai cũng phải
lấy việc TU THÂN làm gốc ( Tu thân vi bản)
Dân tộc Việt Nam bị “linh lạc” bị “điêu linh thống khổ” dưới ách đo hộ Tầu, thực dân
Pháp-Nhật, rồi C.S nên rất cần phải cứu nguy.
Chỉ đại đa số nhân loại bị nghèo khổ áp bức bóc lột trên toàn thế
giới
Chỉ khi nào người dân Việt chúng ta hoàn thành được
4 lời thề trên,
tâm hồn mình mới được thảnh thơi,tự tại hòa đồng cùng
Vũ Trụ
Trong định nghĩa này
nhà văn hào André Malraux tuy xác định văn hóa
có sứ mạng giải phóng con người, thoát khỏi các chế độ và tất cả các hình thức “nô dịch” con người Nhưng tác giả tỏ ra rất bi
quan là qua tác dụng
và hiệu năng văn hóa trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến con người
trở nên ít nô dịch
hơn!” Có nghĩa là “Thân phận con người- “Condition humaine” trong nhân loại cho đến thế
kỷ 20- thời đại mà André Malaux đưa ra định nghĩa
văn hóa vừa
nói- Con người
vẫn còn bị
các hình thức
“nô dịch”
tồi tệ chưa hết được!Phải thế không?
Văn hóa chỉ có tính cách “phản ứng”lại bằng “Lời than” hay “tiếng khóc”thôi sao? Điều này chúng ta không lấy làm lạ vì Albert Camus còn là
triết gia theo triết thuyết Hiện sinh-
Ông cho “cuộc
đời là phi lý”-nhưng không bnông xuôi theo số phận mà chống lại số phận, phản kháng lại số phận bằng
bất cứ biểu hiện nào…dù là “Lời
than hay tiếng khóc”…cũng là cách phản kháng ….(11*)
Thiết nghĩ, từ cuối thế kỷ 20 và bước sang đầu thế
kỷ 21 chúng ta đã kinh qua bốn biến cố lịch sử lớn sau đây:
Hai là: Năm 1989 chế độ CS tại các
nước Đông
Âu và đế quốc CS Liên Sô sụp đổ, chấm dứt
thời kỳ chiến tranh lạnh và đã đánh dấu thời điểm “cáo chung chủ
thuyết sai lầm không tưởng
Mac –Xít”.
Bốn là: Năm 2011 “Đợt sóng
dân chủ thứ tư” đã chính thức bùng phát và trào dâng
trên toàn thế giới… Với bốn biến cố lịch sử này nên “Độ gia tốc chính trị
Văn hóa”đã tiến rất nhanh, không còn trì trệ
như trước nữa .Đây là 4 chứng
cứ lịch sử hùng hồn
nhất, cho phép chúng ta khẳng định người làm văn hóa trong thời đại hiện tại, không chỉ có niềm tin lớn,mà còn có thái độ
lạc quan có tính cách viễn kiến, thống quan và được kiện chứng bằng thực tiễn lịch sử.Chúng ta cần
quan niệm “Sứ mạng Văn Hóa” quan trọng và lớn lao này, nhịp theo đà
tiến của Lịch Sử Văn Hóa Toàn Cầu
Hóa.
E/ Văn Hóa Việt Nam Trong Thời Đại “Toàn Cầu
CHU TẤN
(4*) Kim Dịnh (Nguồn: Newvietart.com)
(6*) Sự quan trọng của Thể chế chính trị trong đời sống
con người- Chu Chi Nam-(Nguồn: Đối Thoại
(9*)Tiểu Sử Lý Đông A (1921-1947)
Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(10*) Tiểu
Sử André Malraux (1901-1975) Bách khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
Subscribe to:
Posts (Atom)