Wednesday, September 30, 2015

Sách cổ của Triều Thanh, in đời vua Quang Tự (1875-1909) khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông là của Việt Nam.


Trong quá trình điền dã tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình, tại gia đình anh Phan Văn Luyện (xã Vũ Chính, Thành phố Thái Bình) chúng tôi đã tiếp cận được cuốn sách cổ, in vào đời Vua Đức Tông (Tải Điềm) - nhà Thanh (niên hiệuQuang Tự, 1875-1909). Sách in thạch bản (in đá) bằng chữ Hán).

Anh Luyện đã vui vẻ trao quyển sách này cho chúng tôi sở hữu và nghiên cứu với hi vọng có thêm những cứ liệu để công bố trước công luận và làm bằng chứng để khẳng định chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam.

Cuốn sách này có tên “Danh hoàn Chí lược” (Sách ghi chép về địa lý Thế giới), có khổ 20cm x 14,5cm, người giám định sách là hai tiên sinh Bích Tinh Tuyền và Lưu Ngọc Ba. Sách do Nhà xuất bản Hòe Lý Đường in.
vietlist.us
Nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch sách Danh hoàn Chí lược

Ở trang 2 của sách ghi: “Quang Tự Mậu Tuất Mạnh Thu” (Tháng 7, năm Mậu Tuất, niên hiệu Quang Tự, triều vua Đức Tông (Tải Điềm -1898). Cũng ngay ở trang 2 ghi: Thượng Hải Thư Cục Đại Ấn (Thư cục Thượng Hải được cho quyền in sách này). Bộ sách này được biên soạn vào năm thứ 28 (Kỷ Dậu, 1849), niên hiệu Đạo Quang, triều vua Thanh Tuyên Tông (Mân Ninh, 1821-1851).

Ở trang 3, 4 và trang 5 của sách có ghi bài tựa của Lưu Vận Kha, soạn vào năm Kỷ Dậu (1849), mùa hạ tháng 4 - triều vua Thanh Tuyên Tông, niên hiệu Đạo Quang. Bài tựa thứ 2 cũng viết vào năm Đạo Quang thứ 28, triều vua Thanh Tuyên Tông, do Bành Uẩn Chương soạn. Bộ sách này từ khi soạn (vào năm 1849, thời vua Thanh Tuyên Tông) phải mất 49 năm sau mới được in (vào năm 1898), triều vua Đức Tông (Nhà Thanh) - niên hiệu Quang Tự.

Bộ sách gồm nhiều tập. Chúng tôi chỉ chú tâm tới các tập 3, 4, 5 (vì 3 tập này đóng gộp thành 1 quyển) và có ghi các đảo thuộc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
vietlist.us
Sách Danh hoàn chí lược. Dòng chữ nhỏ bên phải ghi người giám định Bích Tinh Tuyền, Lưu Ngọc Ba. Dòng chữ nhỏ bên trái ghi Hòe Lý Đường Bản

vietlist.us
Dòng chữ bên phải ghi Quang tự Mậu tuất Mạnh Thu. Dòng thứ hai bên trái ghi Thượng Hải thư cục đại ấn


Nội dung của sách chủ yếu tóm lược vị trí địa lý, lịch sử… của các nước trên thế giới. Sách còn vẽ bản đồ của các nước trên thế giới: từ Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia … cho đến Ả Rập.

Đặc biệt, ở trang 24, 25 của tập sách này có in tấm bản đồ Trung Quốc, mang tên “Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ” (Bản đồ toàn quốc thống nhất đời nhà Thanh). Trên bản đồ này đều có vẽ các nước có chung đường biên giới với Trung Quốc, như: Việt Nam, Mông Cổ, Ấn Độ, Triều Tiên...

Đáng chú ý, ở phần biển đảo, Trung quốc chỉ vẽ đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam), Đảo Đài Loan (của Trung Quốc)… sau đó ghi chú là biển nhưng không hề vẽ và ghi chú đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc. (Bản đồ thứ 1, có ghi chú: Hoàng Thanh Nhất thống dư địa toàn đồ).

vietlist.us
Bản đồ Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ (chưa dịch)

vietlist.us
Bản đồ của nhà Thanh không có đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ ghi đảo Quỳnh Châu (Hải Nam) và đảo Đài Loan

Đặc biệt hơn nữa, ở tấm bản đồ in tại trang 40, 41 của cuốn sách này thì bên cạnh việc vẽ bản đồ đường biển Trung Quốc lại có vẽ eo biển Quảng Nam (và ghi rõ là Nam Việt - tức Việt Nam). Bên cạnh eo biển Quảng Nam, bản đồ này còn vẽ đảo Thất Châu Dương – biển Thất Châu (cả khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa - Vạn lý Trường Sa. Nếu theo bản đồ Trung Quốc thì Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc biển Thất Châu Dương - một cách gọi tên khác mà người Trung Quốc xưa thường dùng và ghi chú trên bản đồ để chỉ khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam (không có ghi khu vực biển Thất Châu Dương này thuộc địa giới của Trung Quốc).

vietlist.us
Bản đồ đã chú thích trong đó có Trường Sa, Hoàng Sa thuộc địa phận biển Việt Nam

Ở tấm bản đồ trang 55 và 56 - chủ yếu vẽ về biển, đảo và các nước giáp Trung Quốc: biển Ấn Độ Dương (Trung Quốc gọi là Tiểu Tây Dương) và có cả ghi chú về Ấn Độ Dương. Trên bản đồ này còn cho biết về biển và đảo Trường Sa của Việt Nam giáp với đảo Quỳnh Châu (Hải Nam - thuộc Quảng Châu, Trung Quốc). Vẽ cả hình tượng bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Trên bản đồ này còn vẽ khu vực biển đảo Quảng Nam: Trong đó vẽ và ghi Thất Châu Dương (Hoàng Sa, Trường Sa), vẽ cả cửa biển Lộc Nại của Quảng Nam và vẽ đảo Côn Lôn của Việt Nam.

vietlist.us
Bản đồ Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ (chưa chú thích) 

Đáng chú ý ở trang 88, 89 giúp cho người đọc hiểu về luồng lạch, hướng gió và các bãi đá ngầm ở trên các đảo Trường Sa, Hoàng Sa và phương hướng, độ dài (tính theo cách tính canh giờ của người xưa) đi trên biển để tới được các nước khác nếu xuất phát từ cửa biển: đảo Trường Sa của Việt Nam.

Phần phiên âm của sách được nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch như sau: “…Sách Hải quốc văn kiến lục có nói: Vùng Nam Dương (biển phía nam) là nơi thuyền buôn của vùng Mân Việt thường đến. Đường biển nơi đây nhiều chỗ nguy hiểm. Người chỉ huy thuyền đi qua biển này cần phải cẩn thận. Nguy hiểm nhất là nơi có hòn đảo Áo Khí. Thủy trình đi khoảng 7 canh giờ từ đảo Áo Khí đến đảo Lạc Tế. Đảo này nhỏ mà bằng phẳng. Ven đảo có nhiều đá ngầm ngổn ngang, thuyền không đến được; thu hút không khí, dòng chảy ở bốn phía. Trên đảo có nhiều cây cỏ mọc cao hơn một trượng, có núi Đông Sư Tượng, nếu muốn đến thì phải theo dòng nước mà đi. Không thể đi ngược lên phía Bắc vì nhiều doi cát nổi chìm, dài khoảng 200 dặm. Đi lên phía bắc thì có đảo và trên đảo có núi Sa Mã Kỳ. Hai ngọn núi này đối mặt vào nhau (ngọn núi Sa Mã Kỳ và Đông Sư Tượng).

vietlist.us
Toàn trang chữ Hán (đã dịch trong bài viết) 
"Theo đường thủy trình trên biển là phải đi bốn canh giờ mới tới địa đầu Sa Mã Kỳ, lại có những doi cát liên tục ở phía nam đến Việt hải (biển Việt) gọi là Trường Sa đầu (địa đầu Trường Sa). Cứ đi về phía nam thì lại thấy nhiều doi cát nổi lên, theo đó mà đi thì đến Vạn Lý Trường Sa. Phía nam Trường Sa có nhiều bãi đá ngầm lởm chởm, đi tiếp là đến biển Thất Châu, gọi là Thiên Lý Thạch Đường. Đây là đất nguy hiểm của vùng Nam Dương, hay có gió bão lớn ở ngoài biển, thuyền đi biển đậu ở ngoài này thường gặp bão gió. Có những thuyền đi lạc đường mà gặp phải nơi đó thì rất nguy hiểm. Một cửa Trường Sa nằm ở phía tây bắc cùng với đảo Nam Áo. Ở phía tây nam là đảo Đại Tinh (Biển bình lặng¬) tạo thành thế chân vạc ở cửa nam bắc, ước rộng phải đi chừng khoảng ngũ canh (đơn vị đo lường thời cổ thường tính theo giờ). Thuyền buôn của người Việt thường đậu ở đó; phía Nam là đảo Lã Tống (Lucson - Philipin), Văn Lai, Tô Lập. Thuyền buôn thường qua mấy nước đó để trao đổi buôn bán, khi xuất phát đều từ cửa Trường Sa mà đi. Nếu gặp gió bắc thì lấy chuẩn từ đảo Nam Áo. Gặp gió Nam, lấy đảo Đại Tinh làm chuẩn để tới Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến (Quảng Đông). Nếu đi về phía Nam của Nam Dương phải đi từ cửa Sa Mã Kỳ (Đài Loan) đến các nước ở Lữ Tống (Philipin), giáp phía Tây Dương. Muốn đến Chiết Giang, Mân Việt… Nhật Bản phải đi theo hướng phía Tây biển Thất Châu, Côn Lôn rồi đến Vạn Lý Trường Sa ngoại (ngoài Vạn lý Trường Sa), qua cửa biển đảo Sa Mã Kỳ - đi theo đường thẳng dây cung mới an toàn. Từ Trung Quốc mà đến nước Indonesia phải đi phía ngoài Vạn lý Trường Sa. Nơi đây biển mờ mịt, không lấy gì làm chuẩn được cho nên muốn đi phải theo những doi cát ở biển Việt rồi mới đến Thất Châu Dương và từ đó đi tới Indonesia; Vùng biển này nước mênh mông nên giới hạn cũng mênh mông…”. (Trích sách “Danh hoàn Chí lược”).

vietlist.us
Bản đồ chưa chú thích trong đó có ghi eo biển Quảng Nam và đảo Thất Châu Dương cùng bản đồ Việt Nam 

vietlist.us
Bản đồ đã chú thích trong đó có ghi eo biển Quảng Nam và đảo Thất Châu Dương cùng bản đồ Việt Nam 

Thông qua tư liệu đã nêu ở cuốn sách này, giúp chúng ta có thêm những bằng chứng quý giá để góp phần khẳng định ngay từ thời nhà Thanh, các bản đồ của Trung Quốc đã vẽ các đảo trên vùng biển của họ chỉ có đảo Hải Nam, Đài Loan là gần với khu vực biển Việt Nam. Điều đó khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa (biển Thất Châu Dương, theo tên gọi trên bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh) là thuộc chủ quyền biển đảo của Việt Nam.



Đặng Hùng (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam)

Bốn Mươi Năm Võ Phiến Nhà Văn Lưu Ðày Tuesday, September 29, 2015 6:07:35 PM 



Nhà văn Ngô Thế Vinh (*)


Lời tòa soạnNhà văn Võ Phiến vừa qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 Tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, thành phố Santa Ana, California, thọ 90 tuổi. Trong niềm tiếc thương một nhà văn lớn của miền Nam Việt Nam ở thế kỷ 20, Nhật báo Người Việt gởi đến quý độc giả bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, như một nén hương lòng gởi đến người đã khuất.



Nhà văn Võ Phiến.

Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến 28-10-1998]
Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã Từ, Lại Thư Nhà, Một Mình...
Rồi qua người bạn tấm cám Nghiêu Ðề, qua tòa soạn Bách Khoa, tôi quen ông từ những năm trước 1960 cho tới khi ra hải ngoại về sau này.


Võ Phiến Bắt Trẻ Ðồng Xanh


Võ Phiến viết Bắt Trẻ Ðồng Xanh, đăng trên Bách Khoa Tháng Mười năm 1968, tựa đề từ cuốn sách dịch của Phùng Khánh Phùng Thăng The Catcher in the Rye của nhà văn Mỹ J.D. Salinger, nhưng nội dung bài viết thì lại nói về kế hoạch cộng sản miền Bắc đưa trẻ em từ trong Nam ra Bắc huấn luyện rồi sau đó đưa trở về miền Nam. Cộng sản cũng đã làm như vậy sau khi ký Hiệp Ðịnh Geneve 1954. Võ Phiến viết:


“...trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước Cộng Sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc... họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh...”


“Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa xẩy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.” (Võ Phiến, Bắt Trẻ Ðồng Xanh, Bách Khoa 10/1968)


Bắt Trẻ Ðồng Xanh hoàn toàn không phải là tùy bút hay truyện ngắn mà là một bài chính luận, một bạch thư tố cáo dã tâm của người Cộng Sản Việt Nam, chưa bao giờ thực sự muốn có hòa bình, nếu có hòa đàm thì đó chỉ là bước hoãn binh chiến lược, họ vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác. Bài viết như một tiên tri, một báo động đã thực sự gây chấn động dư luận bên trong cũng như ngoài nước, với cái giá Võ Phiến phải trả là bị Việt Cộng lên án, và cả hăm dọa tính mạng tiếp sau cái chết của ký giả Từ Chung tổng thư ký báo Chính Luận, do bị đặc công CSVN ám sát. Theo Lê Tất Ðiều, đã có lúc Võ Phiến nghĩ tới tạm lánh xuống vùng Hòa Hảo, một khu được coi là miễn nhiễm với mọi xâm nhập của cộng sản. Ðó cũng là lý do tại sao, Võ Phiến có thời gian làm giáo sư văn chương trường Ðại học Hòa Hảo, Long Xuyên. Trong nghịch cảnh cũng có cái may, nơi đây anh quen một đồng nghiệp trẻ Ðỗ Văn Gia, lúc đó cũng đang dạy bộ môn Triết học Ðông phương. Sau này ra hải ngoại, chính anh Ðỗ Văn Gia trong thời gian làm giảng viên văn học và ngôn ngữ Việt Nam tại Ðại học Cornell từ 1982, đã giúp nhà văn Võ Phiến rất nhiều tư liệu ban đầu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam.


Bánh tráng xứ Nẫu trên đất Mỹ


Từ thập niên 1980, lúc đó hai anh chị Võ Phiến đều là công chức quận hạt Los Angeles, ngôi nhà số 5621 Baltimore St. Highland Park là nơi Võ Phiến đã sống quãng thời gian 23 năm. Nhà có vườn rộng đủ loại cây trái chanh cam bưởi, nhiều nhất là những cây hồng giòn sai trái nặng trĩu cành, có cả bức tượng bán thân của Võ Phiến, tác phẩm điêu khắc của Ưu Ðàm, con trai của họa sĩ Rừng. Trong nhà, ngoài những kệ sách, không có tượng Phật hay tượng Chúa, chỉ có đơn giản một bàn thờ nhỏ cúng gia tiên. Cũng nơi đây, Võ Phiến đã viết một số những tác phẩm tại hải ngoại: bộ Văn Học Miền Nam, Thư Gửi Bạn, Nguyên Vẹn, Truyện Thật Ngắn, Ðối Thoại...


Những lần tới thăm anh Võ Phiến, thường là Thứ Bảy cuối tuần vì khách cũng như chủ nhà còn ở tuổi lao động đi làm. Khách thăm thường đi theo nhóm. Khi thì với Nguyễn Mộng Giác và anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, khi thì với Tạ Chí Ðại Trường, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo; khi thì với anh chị Trần Huy Bích, chị Bích thì rất thân thiết với chị Võ Phiến.



(Từ trái): Huỳnh Sanh Thông (1926 -2008), Ðỗ Văn Gia (1946-1992), Từ Mai Trần Huy Bích.

Trùng Dương từng gọi chị Võ Phiến là “người đàn bà đằng sau bộ Văn Học Miền Nam 1954-75.” Nhưng tưởng cũng nên ghi nhận thêm ở đây, một số khuôn mặt bằng hữu khác đã cung cấp các bộ sách tiếng Việt giai đoạn 1954-75 từ các thư viện Ðại học Pháp, Mỹ giúp anh Võ Phiến tư liệu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam. Như Ðặng Tiến từ Âu Châu, Trần Huy Bích qua liên thư viện Ðại Học UCLA, Ðỗ Văn Gia từ Ðại Học Cornell, họa sĩ Võ Ðình và trước đó từ 1983, học giả Huỳnh Sanh Thông từ Ðại Học Yale (dịch giả The Tale of Kiều), là người giới thiệu Võ Phiến xin được grant/ trợ cấp từ Chương Trình Nghiên Cứu Ðông Dương thuộc Ủy Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Hoa Kỳ (Indochina Studies Program, Social Science Research Council).


Và khách tới thăm thường ở lại ăn trưa với anh chị Võ Phiến. Bữa ăn gia đình do chị Võ Phiến chăm sóc, đôi khi có thêm một hai món khách đem tới. Cho đến nay, có một món chị Võ Phiến cho ăn không thể nào quên, đó là bánh tráng thuần túy Bình Ðịnh nhúng nước, chấm với nước mắm chanh ớt. Chanh thì có sẵn trên cây, chén nước mắm nhỉ đỏ au những lát ớt cũng hái từ vườn nhà. Món ăn giản dị và lạ miệng như vậy mà ai cũng lấy làm ngon, và khách cảm thấy ngon hơn nữa khi chủ nhà dí dỏm liên hệ món bánh tráng xứ Nẫu tới chiến thắng của vua Quang Trung, bánh tráng đã được dùng như lương khô trong cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ An tiến ra Thăng Long dẹp tan 20 vạn quân Thanh.


Nói chuyện với Ðặng Tiến 1998


Ngày 11 Tháng Tư 1998, anh Võ Phiến đã gửi cho tôi bản photocopy 3 trang viết tay bài nói chuyện với Ðặng Tiến kèm theo ít dòng ghi chú: “Thưa anh, đây là bản soạn, không phải nguyên văn lời nói. Khi nói có lời Ðặng Tiến xen vào đôi chỗ. Theo lẽ thì phát thanh vào 28-10-1998. Không biết rồi có đúng vậy không.” Thân, Võ Phiến
Ðặng Tiến bút hiệu Nam Chi, cây bút phê bình văn học từ cuối thập niên 1950, là “bạn cựu” của nhà văn Võ Phiến [bạn cựu là chữ của Võ Phiến để chỉ những cố tri], Ðặng Tiến với Võ Phiến như Bá Nha Tử Kỳ, Ðặng Tiến liên tục theo dõi và rất tâm đắc với những thành tựu văn học của Võ Phiến rất sớm từ 1954 tới mãi về sau này, và cũng đã có rất nhiều bài phê bình điểm sách của Võ Phiến.


Riêng tôi, không được nghe buổi phát thanh ấy, nhưng nếu có thì nội dung chắc sẽ không khác với bản gốc viết tay của anh Võ Phiến. Qua anh Phạm Phú Minh, email liên lạc với Ðặng Tiến hiện ở Pháp, anh trả lời là hoàn toàn không nhớ. Tôi không ngạc nhiên vì cũng đã 17 năm qua rồi. Tiếp đó tôi gửi phóng ảnh 3 trang viết tay của Võ Phiến buổi nói chuyện với Ðặng Tiến, với hy vọng anh ấy có thể sẽ nhớ ra và cho tôi biết thêm chi tiết. Nhưng rồi ba ngày sau cũng vẫn Ðặng Tiến trả lời: “Gửi NTV: Tôi không nhớ ra, sẽ moi trí nhớ trả lời anh sau. Giữ liên lạc. ÐT”
Với anh Võ Phiến, câu chuyện 17 năm trước thì không hy vọng gì anh còn nhớ, tôi vẫn ghi lại đây nội dung buổi nói chuyện rất ngắn ấy, với 3 trang viết tay [chỉ có 938 chữ] như một chút tư liệu văn học, có giá trị như một Tổng Quan về Văn Học Miền Nam giai đoạn 1954-75.


“Thưa anh [Ðặng Tiến],


“Cuối thời tiền chiến, ông Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học 30 năm của Việt Nam. Trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi ông chỉ đếm được ba người ở Nam phần và Trung phần (VP ghi chú thêm bằng bút chì bên lề: Hồ Biểu Chánh, Thanh Tịnh, Nguyễn Vỹ). Tất cả đều viết truyện. Về bộ môn kịch, ký, tùy bút... không có ai cả.
“Cuối thời 1954-75, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về bộ môn tiểu thuyết trong 20 năm ở Miền Nam. Ông bảo số người viết truyện xấp xỉ 200; trong số ấy trên dưới 60 người có giá trị. Giả sử có ai ngờ vực Cao Huy Khanh quá nặng tình bè bạn, và ai đó hạ số ước lượng xuống còn một nửa - tức 30 tiểu thuyết gia thì 20 năm này cũng gấp 10 lần 30 năm trước. Ấy là chưa kể đến những tùy bút gia, kịch tác gia của thời kỳ sau.



Thủ bút của nhà văn Võ Phiến.

“Về mặt khác, hồi tiền chiến ở Trung phần - từ Phú Yên vào đến Bình Thuận - chưa có nhà văn nhà thơ nổi tiếng; và ở khắp các tỉnh Nam phần - ngoài ông bà Ðông Hồ ra - cũng chưa thấy vị nào tiếng tăm rộng rãi trên văn đàn. Nói vậy là căn cứ theo ông Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh.


“Thế rồi trong khoảng 20 năm sau 1954 lần lượt xuất hiện những văn thi sĩ tên tuổi ở Phú Yên (VP ghi chú thêm: Võ Hồng), ở Ninh Thuận Bình Thuận (VP ghi: Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Ðức Sơn), ở Cà Mau (VP ghi: Sơn Nam), Long Xuyên (VP ghi: Nguyễn Hiến Lê), ở Gia Ðịnh (VP ghi: Tô Thùy Yên), Vĩnh Long (VP ghi: Nguyễn Thị Thụy Vũ), Sóc Trăng (VP ghi: Vương Hồng Sển)... Số văn nhân thi sĩ tăng cao chừng ấy, địa bàn văn học nghệ thuật mở rộng đến chừng ấy, như vậy là một đóng góp.


***
“Một đóng góp khác là cái tinh thần tự do, phóng khoáng của thời kỳ văn học này. Thiên hạ nói nhiều về sự đàn áp tinh thần trong những thời ngoại thuộc: hoặc thuộc Tàu, hoặc thuộc Tây. Thực ra, không cứ những thời ấy, ngay lúc nước nhà độc lập, các chế độ quân chủ phong kiến hay chế độ dân chủ cộng hòa ở ta cũng không dung thứ thái độ khích bác nhà cầm quyền. Ngay khi độc lập dân chủ, vẫn thường chỉ có một cái tự do được ban phát rộng rãi, là tự do ca ngợi bề trên.


“Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo...


“Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá.


“Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.
***


“Sau tính cởi mở tự do, chúng ta có thể chú ý đến một đóng góp nữa. Tôi muốn nói về hiện tượng suy tưởng triết lý ở Miền Nam trong thời kỳ 1954-75. Ðến cuối thời tiền chiến, tiểu thuyết ở ta đã có trên dưới mười loại, trong đó có những loại tâm lý, loại luân lý, nhưng khuynh hướng triết lý thì bấy giờ chưa có trong tiểu thuyết. Qua thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam các băn khoăn triết lý xuất hiện đồng loạt trên nhiều địa hạt sáng tác: trong tiểu thuyết, trong thi ca, trong kịch bản, trong tùy bút. Có lúc triết lý tràn lan như một món thời thượng; và nó bị chế giễu.


“Tuy vậy nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu người vì sự bất đồng ý thức hệ, bất đồng quan niệm sống. Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống, sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho lãnh đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xáo động lớn ở Tây Phương, phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một tầng lớp trí thức nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.


***
“Nền văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời gian qua bị ém giấu, xuyên tạc. Nó gặp một chủ trương hủy hoại, gặp những bỉ báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai lưu tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế. Những điều tôi vừa nêu ra chắc chắn còn thiếu, còn sai còn cạn cợt. Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.


[Xin chào anh Ðặng Tiến. Xin chào quí vị thính giả.]” Võ Phiến, 10-1998



Nhà văn Võ Phiến (trái) và Ðặng Tiến.


Bộ Văn Học Miền Nam 1954-75


Khi Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến là vào thời điểm tháng 10 năm 1998, chỉ một năm trước khi Võ Phiến hoàn tất toàn tập bộ Văn Học Miền Nam [với tập I là Văn Học Miền Nam Tổng Quan xuất bản 1986 và tập cuối cùng là Bút Ký Kịch Miền Nam, xuất bản 1999]. Tưởng cũng cần lưu ý câu phát biểu cuối của nhà văn Võ Phiến: “Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.”


Như vậy có thể nói, cho dù Võ Phiến đã phải lao động bền bỉ suốt 15 năm [1984-1999] để hoàn tất bộ sách Văn Học Miền Nam nhưng chính ông chưa hề tự coi đó là một công trình hoàn hảo nên vẫn ao ước việc đánh giá nền văn học 1954-75 cần được bắt đầu nghiêm chỉnh.


Cho dù bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến có những hạn chế đưa tới nhiều tranh cãi khá gay gắt. Người ta đã nặng lời trách ông về những phần thiếu sót trong bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học của thời kỳ 1954-75 ra khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê bình các nhà văn, nhà thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở trường văn phong tùy bút/ nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với nhiều thiên lệch.


Nhà văn Mặc Ðỗ nhóm Quan Ðiểm thì thật sự bất bình, Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong lần trò chuyện cuối cùng với Thụy Khuê Tháng Bảy 1997 cũng không kềm được cảm xúc nói tới “bọn Vua Lê Chúa Trịnh,” và nói thẳng: “Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Ðại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay.” (2)


Nhưng khách quan mà nói, ngòi bút Võ Phiến cũng không thiếu phần tự trào, và cả châm biếm bản thân mình. Khi trả lời phỏng vấn Lê Quỳnh Mai trong chương trình Văn học Nghệ thuật đài TNVN Montréal 29-10-2000, nhà văn Võ Phiến đã không ngại khi ví mình như một Xuân Tóc Ðỏ của Vũ Trọng Phụng: “Nói tới sự may mắn, chắc chị còn nhớ tới Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng, nếu tôi có được một số độc giả chú ý, chẳng qua cũng như anh chàng Xuân Tóc Ðỏ trong truyện ấy thôi.” (4)


Bản thân Võ Phiến cũng đã biết rất rõ phản ứng của giới cầm bút về bộ sách Văn Học Miền Nam. Trong thư nhà văn Võ Phiến gửi Lê Thị Huệ Gió-O ngày 16 Tháng Hai 2001:


“Anh chị em cầm bút thời 1954-75 ở Miền Nam, nhiều người phiền trách tôi về bộ sách này lắm. Tôi chịu trận thôi. Viết mà cốt cho ai cũng... thương (!) thì thành ra cái quái gì.” (3)


Nếu độc giả bình tâm đọc lại Lời Nói Ðầu của cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã bàn qua về “lý do biên soạn cuốn sách đầy những lôi thôi thiếu sót này.” [sic]


Ông đã giải thích rất rõ:


“Trước hết mình không phải là một nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông ra làm công việc biên khảo phê bình là chuyện không nên. Hơn nữa hoàn cảnh thật là khó: xung quanh không có tài liệu mà mình thì không có điều kiện để đi tìm tài liệu, lấy gì tham khảo?”


Ông cũng tiên đoán được cả những hệ lụy như: “viết cái gì có liên quan đến kẻ khác, có chê khen người nọ người kia mà viết qua quýt thì bị mắng mỏ xỉa xói tưng bừng là cái chắc.”


Cân nhắc như vậy, nhưng ông vẫn viết tiếp:


“Ấy vậy mà nghĩ đi nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ viết cuốn sách này. Trước hết là vì chỗ nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn. Thật vậy, thời kỳ 1954-75 gặp cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhưng trước khi có sự công bình, sự sáng suốt, hãy chỉ mong được chút lưu tâm...



Thủ bút Võ Phiến, bản soạn bài nói chuyện với Ðặng Tiến, Tháng Mười, 1998.
“Thời kỳ 1954-75: câu chuyện hủy diệt văn hóa phẩm Miền Nam từ 1975 đến nay không ai là không biết. Ta đã không thể ngăn chận được việc phá hủy, không thể bảo tồn được cái thành tích văn học nọ, thì ngay lúc này cũng nên có một tổng kết, một kiểm điểm sơ lược, để về sau những ai lưu tâm còn có chút căn cứ sưu khảo. Không thế, sao đành?”


Vì chỗ “nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn... rốt cuộc đành miễn cưỡng viết cuốn sách này trong những điều kiện rất không nên viết. Viết như là một sơ thảo, một bản nháp, một gợi ý, nhắc nhở, một cách nêu vấn đề, để sau này những người có đầy đủ tư cách và điều kiện sẽ viết lại một cuốn xứng đáng.” (1)


Biết thiếu sót, biết trước có những hạn chế nhưng chính Võ Phiến, trái với bản chất thâm trầm và thận trọng cố hữu, Võ Phiến vẫn liều lĩnh - như một “risk taker,” ẩn nhẫn làm một công việc tốn rất nhiều công sức và cả nhiều rủi ro như thế. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trong suốt hơn 15 năm từng bước hoàn thành công trình Văn Học Miền Nam với hơn ba ngàn trang sách ấy, Võ Phiến vẫn đang là một công chức Sở Hưu Bổng làm việc full time cho quận hạt Los Angeles, như vậy là ông đã phải làm việc ngoài giờ và những ngày cuối tuần. Võ Phiến về hưu Tháng Bảy năm 1994, ông tiếp tục viết thêm 5 năm nữa để hoàn tất toàn bộ Văn Học Miền Nam 1999. Nếu không có hùng tâm, với công sức của một cá nhân khó có thể làm được như vậy.


Nhưng để rồi khi viết xong, chính Võ Phiến không khỏi ngẩn ngơ tự hỏi: “Cái đã viết ra đó là cái gì vậy? Là lịch sử hai mươi năm văn học Miền Nam chăng? Là kiểm điểm phê bình nền văn học Miền Nam chăng? 3/4 rõ ràng nó không xứng đáng là lịch sử, là phê bình gì cả. Nó không có cái tầm tổng hợp rộng rãi, nó thiếu công phu suy tìm và phân tích đến nơi đến chốn về bất cứ môn loại nào khuynh hướng nào. Chẳng qua chỉ có những nhận xét rất khái lược, liên quan đến nền văn học và các văn gia một thời mà thôi.” (1)


Bao nhiêu phê phán từ trong và ngoài giới văn học đối với công trình Văn Học Miền Nam 1954-75 của Võ Phiến, thực ra cũng không có nghiêm khắc hơn phần “tự kiểm” của chính Võ Phiến trong Lời Nói Ðầu, Văn Học Miền Nam Tổng Quan tập 1.


Công trình nghiên cứu của Võ Phiến cần được đánh giá đúng vào giai đoạn thập niên đầu ngay sau 1975 với hoàn cảnh ra đời của nó: khi mà trong nước có cả một sách lược hủy diệt toàn diện, xóa sổ nền văn học Miền Nam 20 năm ấy, công trình của Võ Phiến như một nỗ lực sưu tập và cứu vãn/ rescue mission, nên xem như một khởi đầu đáng được trân trọng.


Ai cũng hiểu bộ sách Văn Học Miền Nam “không chuyên nghiệp” của Võ Phiến sẽ không bao giờ là bộ sách phê bình văn học duy nhất hay cuối cùng, nhưng đó là một bước tạo thuận/facilitation khởi đầu, một roadmap dẫn tới cả một khối tài liệu đồ sộ để tham khảo, nó như một giàn phóng cho những công trình hoàn chỉnh kế tiếp. Ðây chính là phần trách nhiệm và nghiệp vụ của giới phê bình chuyên nghiệp, họ cần có hùng tâm để “bắt đầu nghiêm chỉnh“việc đánh giá nền văn học 1954-75 bằng những tác phẩm xứng đáng thay vì cứ mãi xoáy nhìn vào “nửa phần vơi” của bộ sách Võ Phiến.


Một câu hỏi được đặt ra: ai trong chúng ta có thể “bắt đầu nghiêm chỉnh” một công trình nghiên cứu như vậy? Một câu hỏi tiếp theo: ai sẽ thừa kế kho tư liệu phong phú mà anh Võ Phiến có được trước khi rơi vào quên lãng?
Lê Ngộ Châu hòa giải


Năm 1994, anh Lê Ngộ Châu và con gái sang Mỹ. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa, anh có nhiều thân hữu: Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết giữa anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác có “vấn đề” trong sự chuyển tiếp từ tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học.


Nguyễn Mộng Giác với Võ Phiến vốn là người cùng tỉnh. Võ Phiến tâm sự: “Gặp một tác giả đồng tỉnh là một niềm vui mừng, lại phát giác ra ở tâm hồn tác giả nọ một số đặc điểm địa phương đã làm nên cái đẹp của tác phẩm thì lý thú biết bao! Làm sao cầm lòng được? Phải nói về Bình Ðịnh chứ chị!” (4)



Anh Lê Ngộ Châu trong chuyến thăm California (1994). Từ trái: Ðỗ Hải Minh/Dohamide, Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến.

Nhưng rồi cái tình đồng hương ấy cũng không tránh được trục trặc trong vấn đề điều hành tờ Văn Học và chọn bài vở khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự “nghẽn mạch” giữa hai người. Anh Lê Ngộ Châu sốt sắng đóng vai “hòa giải” - vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.


Như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse trên đường Bellflower, Long Beach nơi tôi cư ngụ. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác; riêng Lê Tất Ðiều đưa anh Võ Phiến tới nhưng bận nên không tham dự; và có khoảng hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy... Chỉ riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã như một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm tới 1975, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa vốn là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.


Ðó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu, cũng như ông giám đốc Nhà sách Khai Trí, cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn. Năm 2006, trong dịp đi thăm Ðồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ Châu nơi tòa soạn Bách Khoa, 160 Phan Ðình Phùng ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp gỡ hôm đó. Khi hỏi anh về cuốn hồi ký 18 năm tờ báo Bách Khoa, anh Lê Ngộ Châu cười dí dỏm trả lời:


“Anh Vinh hỏi Võ Phiến có cho tôi viết không?” Anh Châu muốn nói tới những chuyện ngoài văn học diễn ra ở tòa soạn Bách Khoa trong suốt thời kỳ ấy. Khi trở lại Mỹ, chỉ ít lâu sau được tin anh Châu mất ngày 24 Tháng Chín 2006, anh thọ 84 tuổi.


Võ Phiến 75 tuổi, quá mức ước ao


Tháng Mười Hai cuối năm 1998, tôi nhận được thiệp chúc xuân của nhà văn Võ Phiến, anh viết:
“Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 75: quá mức ước ao! Anh sắp tới lục tuần chứ ít sao, lục tuần là tuổi tung hoành múa bút khỏe lắm. Xin chúc anh chị sang năm mới được mọi sự an lành. Riêng anh nên có sách mới xuất bản. Thân mến, Võ Phiến”



(Từ phải): Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Lê Tất Ðiều. (California 1994)

Thực sự anh Võ Phiến lúc đó mới 73 tuổi, anh sinh năm 1925, tuổi Ất Sửu.


Cả ba bạn văn: nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà báo Như Phong và anh Lê Ngộ Châu cùng tuổi Quý Hợi (1923), hơn Võ Phiến hai tuổi. Doãn Quốc Sỹ vẫn gọi đùa Lê Ngộ Châu là Lê Quý Hợi và anh ấy là Doãn Quý Hợi. Ba ông Quý Hợi thì nay chỉ còn một Doãn Quốc Sỹ. Nhà báo Như Phong mất 2001 tại Virginia, chủ nhiệm Lê Ngộ Châu mất 2006 tại Sài Gòn.


Cũng vẫn thư nhà văn Doãn Quốc Sỹ gửi anh Lê Ngộ Châu [29/08/1996] có nhắc tới Võ Phiến mà anh gọi đùa là cụ Võ Bình Ðịnh: “Ðược xem bức ảnh cụ Võ Bình Ðịnh mặc màu áo sơ-mi rất trẻ, nhìn ảnh cụ cười mà tưởng như nghe thấy cả tiếng cười hóm hỉnh của cụ điểm xuyết trong câu chuyện tại tòa soạn Bách Khoa ngày nào.”


Trước ngưỡng tuổi cổ lai hy, Võ Phiến đã trải qua hai cuộc mổ tim lớn / Coronary Artery Bypass Surgery; lần thứ nhất 1985 khi Võ Phiến mới 60 tuổi, anh bắt đầu bị ám ảnh về cái chết:


Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê... (1986)


Bảy năm sau 1992, Võ Phiến 67 tuổi lại phải bước vào cuộc mổ tim lần thứ hai khó khăn và phức tạp hơn. Anh bi quan và bị ám ảnh nhiều hơn về cái chết.


Anh đã đặt bút viết về Cái Sống Hững Hờ:


“Bản thân tôi trước đây có lần phải vào bệnh viện chịu mổ xẻ, tôi ngậm ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè, nhờ một văn hữu thân tình trao giúp cho, sau khi mình...ra đi. Hóa ra rồi sau cuộc giải phẫu tôi tiếp tục sống nhăn. Sống và ngượng ngập vu vơ.


“Năm tháng trôi qua. Quá bát tuần, tôi lén lút hướng một chút tưởng tượng về cái kết thúc của đời mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí ti, sợ gì? Liếc qua xong rồi liếc lại, tôi ngạc nhiên không nhận thấy một xúc động bất thường nào xảy ra cả. Cuộc sống đang tiếp diễn vẫn tiếp diễn đều đều...


“Tạo Hóa có lòng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người càng cao, lòng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại một sự hững hờ: ‘Chết? ai mà khỏi? Việc gì phải sợ?’ Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Ðại khái thế thôi.”



Thủ bút Võ Phiến - Thư gửi Ngô Thế Vinh.

Khi chị Võ Phiến cũng nghỉ hưu, không còn nhu cầu ở gần sở làm nữa, năm 2003 anh chị dọn về vùng gần Little Saigon. Ngôi nhà mới xinh xắn hai tầng trong một cư xá yên tĩnh cuối đường số 5 thành phố Santa Ana, cũng có một khoảnh vườn rất nhỏ với những cây hoa hồng ở bờ dậu, và một ít cây trái; vừa sức để chị Võ Phiến bước qua tuổi 70 vẫn còn có thể vui thú điền viên và chăm sóc. Ngoài những sách tái bản như Võ Phiến Toàn Tập, Cuối Cùng được coi là tác phẩm sau cùng của Võ Phiến hoàn thành nơi ngôi nhà mới, viết xong 2007 NXB Thế Kỷ 21 cho in năm 2009.


Võ Phiến bước vào tuổi 90


Sinh ngày 20 Tháng Mười, 1925, sáu tháng nữa, 2015 Võ Phiến vừa tròn 90 tuổi. Có lẽ anh là một trong số ba nhà văn Miền Nam ở hải ngoại sống thọ nhất, chỉ sau nhà văn Mặc Ðỗ 98 tuổi [sinh năm 1917] sống ở Austin Texas, nhà văn Doãn Quốc Sỹ 92 tuổi [sinh năm 1923] hiện sống ở Nam California.


Lại vẫn dùng một câu viết 17 năm trước trong một thiệp xuân của Võ Phiến 1998: “Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 90: quá mức ước ao!”


Và cuộc sống của Võ Phiến “vẫn cứ tiếp diễn đều đều.” Chị Viễn Phố, vợ anh vẫn che dù cho anh đi bộ mỗi ngày với walker có bánh xe lăn. Nhìn chung theo khía cạnh y khoa, ở nhóm tuổi 90 ấy, thể lực của anh Võ Phiến được xem là khá tốt cho dù trí tuệ anh đã có nhiều phần lãng đãng, cái lãng của người cao tuổi / senile dementia. Anh không nhớ hết những khuôn mặt thân quen nhưng với vài người “bạn cựu” - vẫn chữ của Võ Phiến - thân thiết lâu năm như Hoàng Ngọc Biên, Ðặng Tiến, Lê Tất Ðiều... anh vẫn giữ được một trí nhớ xa/ remote memoryqua các cuộc nói chuyện điện thoại gần đây và cả ở những lần gặp mặt.


Vậy mà đã 40 năm, với hai lần Võ Phiến khóc khi di tản khỏi Việt Nam: một lần ở tòa soạn báo Bách Khoa trên đường Phan Ðình Phùng, lần thứ hai trên con tàu Challenger khi rời đảo Phú Quốc. (5) Bốn mươi năm ấy 1975-2015, với bao nhiêu nước chảy qua cầu, như một nhà văn lưu đầy Võ Phiến vẫn sống làm việc trong sự cô đơn buồn bã. (6)


Bài viết Tháng Tư này, gửi tới nhà văn Võ Phiến khi anh bước vào tuổi thượng thọ 90, ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm. Cũng gửi tới hai anh chị Võ Phiến và Viễn Phố lời chúc “cây đời thì vẫn cứ mãi xanh tươi” (7).




















Tham khảo:
1) Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Lời Nói đầu. Võ Phiến. Nxb Văn Nghệ 1986.http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3056
2) Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo. Thụy Khuê 07/ 1997http://hopluu.net/a1153/noi-chuyen-voi-nha-van-mai-thao-va-tran-vu
3) Lê Thị Huệ. Võ Phiến, Văn Chương Mất Trí Nhớ. 11-2012http://www.gio-o.com/Chung/LeThiHueVoPhien.htm
4) Lê Quỳnh Mai phỏng vấn nhà văn Võ Phiến. Tác giả, với chúng ta. Nxb Khôi Nguyên, Montréal Canada 2004.
5) Ngô Thế Vinh, Bốn Mươi Năm Dương Nghiễm Mậu và Tự Truyện Nguyễn Duhttp://damau.org/archives/35745
6) John C. Schafer Võ Phiến and the sadness of exile. Southeast Asia Publications, Center for Southeast Asian Studies, Northern Illinois University, Mar 1, 2006
7) Johann Wolfgang von Goethe. All theory, dear friend, is gray, but the golden tree of life springs ever green. Faust pt.1 (1808) 'Studierzimmer'
----
(*) Bài viết được đăng trên Diễn Ðàn Thế Kỷ Online, ngày 26 Tháng Tư, 2015.

Monday, September 28, 2015

Người dân Việt Nam: Một cổ ba tròng



Trong buổi thảo luận về tình hình kinh tế xã hội và ngân sách tại QH ngày 21/9. ĐB Trần Du Lịch nhấn mạnh “nếu cứ duy trì bộ máy chính quyền địa phương 3 cấp với tất cả ban bệ hệ thống như hiện nay thì không dân nào đóng thuế nuôi nổi bộ máy này.


Tại sao lại như vậy?


Chế độ cộng sản duy trì ba hệ thống tồn tại dựa vào tiền thuế của Nhân dân, đó là: Hệ thống chính quyền và hệ thống đảng và hàng trăm các tổ chức chính trị xã hội. Cả ba hệ thống này đều được thiết lập từ trung ương đến địa phương, có tới 3 cấp địa ở địa phương: tỉnh, huyện, xã. Và có mặt ở đủ 63 tỉnh, thành. Tất cả những người làm việc cho 3 hệ thống và 4 cấp này đều được gọi là công chức, viên chức. Và được hưởng lương từ tiền thuế của Nhân dân.


Trong khi đó ở các quốc gia dân chủ văn minh, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị xã hội không được phép sử dụng tiền thuế của người dân. Các đảng chính trị, các tổ chức chính trị xã hội chỉ được sử dụng tiền từ việc đóng góp của các thành viên và sự ủng hộ tự nguyện của dân chúng.


Nước Mỹ với hơn 300 triệu dân đóng thuế, họ chỉ phải nuôi 2,7 triệu nhân viên Nhà nước. Việt Nam với 90 triệu dân, phải nuôi hơn 2,1 triệu nhân viên Nhà nước và quan chức đảng cộng sản.


Ngân sách hàng năm của đảng cộng sản chưa bao giờ được công khai cho những người dân đóng thuế được biết. Trong khi đó ở nhiều nơi trụ sở, trang thiết bị làm việc của các cơ quan đảng còn to lớn, hoành tráng hơn cả trụ sở của các cơ quan chính quyền.


Đa số người dân Việt Nam còn nghèo, chỉ đủ ăn, mặc, chưa được chăm sóc đầy đủ về y tế, văn hóa, giáo dục, xã hội,….. và càng chưa có được các điều kiện để hưởng thụ các thành quả phát triển. Trong khi đó, hàng phải nộp cả trăm loại thuế, phí, quĩ,… khác nhau.


Ngân sách được thu từ tiền thuế, phí,… của người dân còn hạn chế, nhưng việc quản lý, chi tiêu nguồn tiền này còn lãng phí được xếp hàng đầu của thế giới.
Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2013 đã xếp hạng Việt Nam đứng thứ 102 về chỉ số về lãng phí trong chi ngân sách. Tức là phần chi ngân sách và lãnh phí ngân sách của Việt Nam được Diễn đàn kinh tế thế giới đánh giá là nghiêm trọng rất nhiều.


Ngày 13 tháng 6 năm 2015,  Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá có tới 30% cán bộ công chức không làm được việc. Tức là Nhân dân phải nuôi tới 700,000 cán bộ công chức, viên chức một cách lãng phí.


Thời thực dân phong kiến, người dân Việt Nam phải một cổ hai tròng đã không chịu nổi. Đất nước có độc lập, người dân lại phải một ba tròng.


Phải nuôi ba hệ thống với bốn cấp chính quyền, đảng cộng sản và các tổ chức chính trị xã hội với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức khổng lồ, cộng với nạn lãng phí, tham nhũng ngân sách thì đúng là KHÔNG DÂN NÀO NUÔI NỔI BỘ MÁY NÀY.


Luật sư Nguyễn Văn Đài

tran du lich

Công du của ĐGH Francis 'rất thành công về mặt chính trị và tôn giáo'


Sunday, September 27, 2015
Đỗ Dzũng/Người Việt


PHILADELPHIA, Pennsylvania (NV) - “Chuyến thăm Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha đã rất thành công về mặt chính trị và tôn giáo.”


Đó là nhận xét của Linh Mục Nguyễn Khắc Hy, giáo sư Thần Học tại Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ, Washington, DC, khi trả lời phỏng vấn của nhật báo Người Việt qua điện thoại.


Đức Giáo Hoàng Francis (giữa) tặng sách Phúc Âm Thánh Luca cho hai người
trong một gia đình Việt Nam. (Hình: Carl Court/Getty Images)


Linh mục cũng là thông dịch viên chính thức cho cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Đại Hội Gia Đình Thế Giới được tổ chức ở Philadelphia trong mấy ngày qua.


Linh mục giải thích thêm: “Về mặt chính trị, ba bài diễn văn của ngài tại Tòa Bạch Ốc, Quốc Hội Mỹ, và Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã đánh động chính sách của Hoa Kỳ, nhất là trong hai đề tài di dân và môi trường. Tất nhiên, chúng ta chưa biết các chính trị gia Mỹ sẽ làm gì trong những ngày tới, nhưng kết quả cụ thể chúng ta có thể thấy là sự từ chức của Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner.”
“Về mặt tôn giáo, tôi nhận thấy người Công Giáo rất vui mừng, và họ nhận thức được thông điệp của Đức Giáo Hoàng, đó là 'Sống Tin Mừng trong gia đình' có nghĩa là 'Sống Tin Mừng bằng đời sống hôn nhân và gia đình.' Đây là sứ điệp được mọi người đón nhận rất nồng nhiệt,” vị linh mục nói thêm.


Giáo dân Việt Nam tham dự Thánh Lễ


Nói về Thánh Lễ tại Philadelphia, do Đức Giáo Hoàng Francis chủ tế, trong ngày cuối cùng của ngài ở Hoa Kỳ, Linh Mục Hy nhận xét: “Tôi thấy có rất nhiều người Việt Nam. Có hàng chục người trong ca đoàn, có hát tiếng Việt, có hát Đáp Ca bằng tiếng Việt, có đọc Thánh Thư bằng tiếng Việt, có Đức Hồng Y Nguyễn Văn Nhơn, tổng giám mục Tổng Giáo Phận Hà Nội, sang tham dự, rồi có Giám Mục Nguyễn Văn Hiếu, giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Toronto, Canada,... và rất nhiều linh mục Việt Nam.”


“Năm nay là 'Năm Lòng Thương Xót' của Vatican. Trong số năm gia đình đại diện năm châu mà Đức Giáo Hoàng chọn ra để trao Phúc Âm Thánh Luca, có một gia đình từ Việt Nam sang, đại diện cho Châu Á. Nói chung, người Việt Nam chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong giáo hội tại Hoa Kỳ,” Linh Mục Nguyễn Khắc Hy nói tiếp.


Được biết, người hát Đáp Ca trong Thánh Lễ là anh Võ Sinh, thuộc ca đoàn giáo xứ Thánh Helena ở Philadephia.


Còn người đọc bài Thánh Thư thứ hai là Soeur Mary Nguyễn Hồng Quế, giám đốc chương trình gia đình, thuộc Tổng Giáo Phận Sài Gòn.


Được biết, Soeur Mary Nguyễn Hồng Quế có mang đến Hoa Kỳ một bức tranh Đức Mẹ Maria làm bằng những hột gạo để tặng Đức Giáo Hoàng Francis.
Soeur Mary Nguyễn Hồng Quế đọc bài Thánh Thư thứ hai tại Thánh Lễ.
(Hình chụp qua TV)


Kỹ sư Đỗ Ngọc Dũng, một giáo dân Công Giáo ở Brooklyn Park, Minnesota, cùng gia đình đến tham dự Thánh Lễ nói rằng lòng tin của ông được vững mạnh hơn sau khi trông thấy Đức Giáo Hoàng Francis.


“Đức Giáo Hoàng là người thay mặt Chúa. Khi đến gần ngài, tôi cảm thấy gần gũi hơn là nhìn qua truyền hình, cảm thấy niềm tin của mình đầy đủ hơn. Mặc dù Chúa nói rằng 'Phúc cho những ai không thấy mà tin,' nhưng với tôi, được thấy thì vẫn tốt hơn,” ông vừa cười vừa nói với nhật báo Người Việt qua điện thoại.
Ông nói thêm về Thánh Lễ do Đức Giáo Hoàng Francis chủ tế: “Có đến đây mới thấy đức tin của người Công Giáo rất lớn. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới, không ai biết ai, nhưng đều hiểu nhau. Khi Đức Giáo Hoàng Francis làm lễ, lúc thì bằng tiếng Anh, lúc bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng tôi có cảm giác mọi người đều hiểu rất rõ và cảm thấy đức tin dâng cao.”


Bà Hoài Phạm, cư dân Buffalo, New York, có nhận xét như sau: “Trước khi đi cảm thấy mình tội lỗi vô cùng, nhưng bây giờ thì cảm thấy khá hơn, vì được nghe những lời giảng về gia đình, về thăng tiến hôn nhân, rất tốt.”


“Trong Thánh Lễ, tôi chỉ lo cho sinh mạng của Đức Thánh Cha. Lúc ngài bước ra khỏi xe để lên bàn thờ, tôi cứ cầu nguyện, sợ đứa nào nó bắn ngài. Tôi thấy mọi người dự Thánh Lễ rất sốt sắng,” bà nói thêm.


Bà cho biết, đây là lần đầu tiên được thấy Đức Giáo Hoàng, rất là vui, nhưng chưa bao giờ đến Vatican.


“Sau chuyến này về, tôi sẽ thúc chồng tôi đi Vatican một chuyến. Tôi muốn gặp ngài lần nữa,” bà quả quyết.


Nhà báo Trần Đông Đức, chủ nhiệm tuần báo Người Việt Đông Bắc, có mặt tại Thánh Lễ từ đầu đến cuối và cảm thấy tự hào.


“Tôi không phải là người theo Công Giáo, nhưng cảm thấy rất tự hào, vì thấy có nhiều người Việt Nam tham dự Thánh Lễ, và có cả tiếng Việt được đọc nữa. Tôi thấy người Việt là một lực lượng 'chủ lực' ở đây. Họ có tinh thần hiệp thông cao, tin vào Thiên Chúa, có sự bình đẳng, bác ái, không phân biệt đẳng cấp,” nhà báo Trần Đông Đức nhận xét.


Ông nói thêm: “Nói thật, tôi chỉ đến tham dự vì hiếu kỳ, nhưng thấy nghi thức rất trang trọng, tôn nghiêm, và đúng là một sự kiện lịch sử tại Philadelphia. Và một lần nữa, có tới dự Thánh Lễ mới chứng kiến là người Việt Nam mình rất mạnh. Tôi rất hãnh diện.”


Gặp nạn nhân lạm dụng tình dục


Trước khi cử hành Thánh Lễ, Đức Giáo Hoàng đã gặp một số nạn nhân tình dục và nói “Chúa đã khóc” cho họ, theo CNN.


Đức Giáo Hoàng gặp năm nạn nhân, ba phụ nữ và ba đàn ông, theo thông cáo báo chí của Vatican.


Tất cả năm người này đều bị các linh mục, thành viên gia đình, hoặc thầy giáo, lạm dụng tình dục khi còn là thiếu niên.


Đức Giáo Hoàng Francis đã nghe họ kể chuyện, nói với họ, từng cá nhân cũng như cả nhóm, và sau đó cầu nguyện cùng với họ.


Nơi đức giáo hoàng gặp các nạn nhân là nhà dòng St. Charles Borromeo, một nơi thuộc Tổng Giáo Phận Philadelphia, từng có hai vụ lạm dụng tình dục được đại bồi thẩm đoàn đề cập năm 2005 và năm 2011, trong đó, những người đứng đầu tổng giáo phận bị tố cáo không có biện pháp thích đáng để ngăn chặn tình trạng linh mục lạm dụng tình dục trẻ em.


Sau đó, trong cuộc họp với các giám mục, Đức Giáo Hoàng Francis hứa sẽ “xem xét cẩn thận” để bảo đảm trẻ em được bảo vệ và nói rằng những người lạm dụng phải chịu trách nhiệm.


“Những người chịu trách nhiệm chăm sóc trẻ em lại vi phạm lòng tin và làm họ đau đớn,” vị giáo chủ đứng đầu Vatican được CNN trích lời nói. “Những ai chịu đựng sự lạm dụng này đã trở thành những sứ giả của lòng thương xót. Chúng ta biết ơn họ, bởi vì họ bị lạm dụng một cách đau khổ, lạm dụng tình dục trẻ em.”


Tại Vatican năm 2014, Đức Giáo Hoàng Francis từng gặp nạn nhân lạm dụng tình dục. Trong một Thánh Lễ riêng tư với sáu nạn nhân, vị giáo hoàng đã xin lỗi và xin họ tha tội.


Gặp tù nhân trong nhà tù


Cũng trong ngày Chủ Nhật, Đức Giáo Hoàng Francis đã gặp một số tù nhân và cai tù trong nhà tù Curran-Fromhold, lớn nhất ở Philadelphia.


Đức Giáo Hoàng đã ngồi trên một chiếc ghế, do các tù nhân làm đặc biệt cho ngài, nói chuyện với một số tù nhân, và bài nói chuyện của ngài được loa phóng thanh truyền đi khắp nhà tù, theo NBC.


Đức Giáo Hoàng Francis nói với các tù nhân rằng họ không cô đơn, và không nên cảm thấy bị ruồng bỏ trong thời gian ở tù.


“Tôi đến đây như là một linh mục, nhưng trên hết là một người anh, để chia sẻ tình trạng của các bạn, và cảm nhận của tôi,” Đức Giáo Hoàng được trích lời nói. “Bất cứ xã hội nào, gia đình nào, mà không thể chia sẻ hoặc cảm nhận một cách nghiêm túc sự đau đớn của con cái, và coi đây là chuyện bình thường, hoặc là điều tất nhiên, thì đó là một xã hội đáng bị chê trách là tự trói mình.”
Đức Giáo Hoàng ban phép cho một tù nhân trong nhà tù Curran-Fromhold,
Philadelphia. (Hình: Todd Heisler-Pool/Getty Images)


Đức giáo hoàng cũng nói lòng tin sẽ giúp các tù nhân trong thời gian “hồi phục” bởi vì không ai là hoàn hảo.


“Tất cả chúng ta có một điều gì đó cần phải tẩy rửa, hoặc làm cho tinh khiết. Cầu mong những hiểu biết về chuyện này làm cho chúng ta sống trong sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, và tìm thấy cái tốt nhất trong mỗi con người,” Đức Giáo Hoàng Francis nói.


Đại Hội Gia Đình Thế Giới


Đại Hội Gia Đình Thế Giới lần thứ 8 diễn ra từ ngày 22 đến ngày 25 Tháng Chín tại Trung Tâm Hội Nghị Philadelphia, với chủ đề “Tình yêu là sứ mệnh của chúng ta: Để gia đình được sống dồi dào,” với cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Francis trong hai ngày 26 và 27 Tháng Chín, và kết thúc bằng Thánh Lễ do ngài chủ tế tại Benjanmin Franklin Parkway, có khoảng hơn 1 triệu người tham dự.


Đại Hội Gia Đình Thế Giới năm nay là đông nhất, với 18,000 người ghi danh tham dự, mà theo Đức Ông Trịnh Minh Trí, chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, kiêm chánh xứ giáo xứ Thánh Helena, có tới hơn 1,100 người Việt Nam.


Đại Hội Gia Đình Thế Giới được tổ chức ba năm một lần, qua sáng kiến của Đức Giáo Hoàng John Paul II, với lần thứ nhất ở Rome, Ý, năm 1994. Sau đó, đại hội được tổ chức ở Rio de Janeiro, Brazil (1997), Rome, Ý (2000), Manila, Philippines (2003), Valencia, Tây Ban Nha (2006), Mexico City, Mexico (2009), và Milan, Ý (2012).


Đại Hội Gia Đình Thế Giới lần thứ 8 ở Philadelphia năm nay là đại hội đầu tiên được tổ chức tại Mỹ.


Giã từ nước Mỹ


Sau sáu ngày thăm Hoa Kỳ, qua ba thành phố lớn, đọc 18 bài diễn văn, gặp gỡ hàng triệu người, Đức Giáo Hoàng Francis kết thúc chuyến viếng thăm đầu tiên của ngài đến Mỹ.


Tại bất cứ nơi đâu Đức Giáo Hoàng Francis cũng được mọi người hoan nghênh, dù là người Công Giáo hay không.


Trước khi đến Hoa Kỳ, Đức Giáo Hoàng Francis đã thăm Cuba trong bốn ngày, gặp cả hai anh em ông Fidel và ông Raul Castro, chủ tế Thánh Lễ, thăm người nghèo... Ngài là vị giáo hoàng thứ ba thăm đảo quốc này.


Đức Giáo Hoàng Francis bước lên cầu thang máy bay, chuẩn bị bay về Rome, Ý.
(Hình: AP Photo/Susan Walsh)


Tại phi trường Atlantic Aviation, Philadelphia, lúc 6 giờ chiều Chủ Nhật, Đức Giáo Hoàng Francis, đứng cạnh Hồng Y Charles J. Chaput, tổng giám mục Tổng Giáo Phận Philadelphia, đã ngỏ lời cảm ơn ban tổ chức, thiện nguyện viên, và các nhà bảo trợ Đại Hội Gia Đình Thế Giới.


Lúc 7 giờ 30 phút tối, Phó Tổng Thống Joe Biden có mặt tại phi trường để tiễn Đức Giáo Hoàng Francis bước lên chiếc máy bay của hãng American Airlines, cất cánh lúc 7 giờ 40 phút để bay về Rome, Ý, kết thúc chuyến thăm lịch sử nước Mỹ.


Liên lạc tác giả: dodzung@nguoi-viet.com


Friday, September 25, 2015

TÌNH YÊU CAO CẢ QUA HAI BÀI DIỄN VĂN


Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước ĐTC Phanxicô
(Nhà Trắng, 23.9.2015). 


Chào buổi sáng!


Chúa đã làm nên một ngày thật tuyệt vời!


Kính thưa Đức Thánh Cha, Michelle và tôi xin chào mừng Ngài đến với Nhà Trắng. Ở đây thường không đông người như thế này – nhưng tầm mức và tinh thần của cuộc gặp gỡ ngày hôm nay chỉ phản ánh phần nào lòng yêu mến sâu xa của 70 triệu người Công Giáo Mỹ… và con đường sứ điệp tình yêu và hy vọng của Ngài đã truyền cảm hứng cho biết bao người, trên khắp đất nước chúng tôi và trên toàn thế giới. Thay lời cho người dân Mỹ, thật là vinh dự lớn lao và là đặc ân cho tôi được chào đón Ngài đến với nước Mỹ.


Hôm nay, chúng ta đánh dấu nhiều điểm khởi đầu. Thưa Đức Thánh Cha, Ngài được chúc mừng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ. Đây là chuyến thăm nước Mỹ đầu tiên của Ngài. Và Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên chia sẻ Thông Điệp trên Twitter.


Thưa Đức Thánh Cha, chuyến thăm của Ngài không chỉ cho phép tôi, trong cách thế khiêm tốn, đáp lại lòng hiếu khách đặc biệt mà Ngài rộng mở với tôi tại Vatican năm ngoái. Nó cũng cho thấy biết bao người dân Mỹ, từ mọi nền văn hóa và thuộc mọi niềm tin, quý trọng vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong việc phát triển đất nước. Ngay từ thời tôi làm việc tại các khu phố nghèo cùng với Giáo Hội Công Giáo tại Chicago, đến thời tôi làm Tổng Thống, tôi đã tận mắt thấy cung cách mà mỗi ngày, các cộng đồng Công Giáo, các linh mục, các nữ tu, và các giáo dân nuôi những người đói khát, chữa lành người đau ốm, che chở người vô gia cư, giáo dục các trẻ em, và củng cố đức tin nâng đỡ rất nhiều người.


Điều ấy thật đúng trên đất Mỹ, cũng đúng trên toàn thế giới. Từ đường phố nhộn nhịp của Buenos Aires tới ngôi làng xa xôi ở Kenya, các tổ chức Công Giáo phục vụ người nghèo, giúp đỡ các tù nhân, xây dựng các trường học và nhà ở, thành lập các cô nhi viện và các bệnh viện. Và khi Giáo Hội đứng về phía những người đấu tranh để phá vỡ xiềng xích của nghèo đói, thì đó cũng là tiếng nói và niềm hy vọng cho những ai đang tìm cách bẻ gãy xiềng xích của bạo lực và áp bức.


Tuy nhiên, tôi tin rằng, niềm vui nồng nhiệt xung quanh chuyến viếng thăm của Ngài phải được ghi nhận, không chỉ do vai trò của Ngài trong tư cách là Giáo Hoàng, mà còn do những phẩm tính độc đáo của Ngài trong tư cách là một con người. Với lòng khiêm tốn của Ngài, Ngài mang lấy một sự đơn sơ, lịch thiệp trong lời nói và sự quảng đại trong tinh thần, chúng tôi nhìn thấy một mẫu gương sống động cho những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Đấng là vị lãnh đạo có thẩm quyền luân lý không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.


Ngài mời gọi tất cả chúng ta, Công Giáo cũng như không Công Giáo, đặt “người nhỏ bé nhất” vào tâm điểm của sự quan tâm của chúng ta. Ngài nhắc chúng ta rằng, trong cái nhìn của Thiên Chúa, sự đo lường của chúng ta như là các cá nhân, như là các xã hội, không được xác định bởi sự giàu có hay quyền lực hay địa vị hay danh tiếng,nhưng xác định bởi cách thế chúng ta đáp lại lời mời gọi của Kinh Thánh để nâng đỡ người nghèo và người bị thiệt thòi, thúc đẩy công bằng và chống lại bất công, và đảm bảo rằng, mỗi người có thể sống đúng phẩm giá – bởi vì tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.


Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng “sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thiên Chúa” là lòng thương xót. Điều ấy có nghĩa là chào đón người lạ với sự đồng cảm và con tim rộng mở, từ những người tị nạn phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh tàn phá, đến những người nhập cư phải rời bỏ nhà cửa để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Điều ấy có nghĩa là diễn tả sự cảm thông và tình yêu với những người chịu thiệt thòi và bị gạt ra bên lề, với những người chịu đau khổ, với những người đang tìm sự cứu độ.
Ngài nhắc chúng ta nhớ về cái giá phải trả cho chiến tranh, đặc biệt là những người cô thế và người không có khả năng tự vệ, và thúc giục chúng ta hướng tới tính khẩn thiết của hòa bình.


Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi biết ơn Ngài vì sự nâng đỡ vô giá mà Ngài dành cho chúng tôi trong những bước khởi đầu với nhân dân Cuba, với lời hứa cho mối tương quan tốt hơn giữa hai quốc gia, cho sự hợp tác hơn nữa, và cho đời sống tốt hơn với người dân Cuba. Chúng tôi cám ơn Ngài vì tiếng nói đầy nhiệt huyết của Ngài chống lại các cuộc xung đột chết người. Các xung đột ấy tàn phá cuộc sống của quá nhiều người nam nữ và trẻ em. Chúng tôi cám ơn Ngài vì Ngài mời gọi các quốc gia chống lại chiến tranh và giải quyết các tranh chấp thông qua ngoại giao.


Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng, con người chỉ thực sự tự do khi họ có thể thực hành đức tin của mình cách tự do.Ở nước Mỹ này, chúng ta trân quý tự do tôn giáo. Thế nhưng, trên thế giới ngay lúc này đây, những người con của Chúa, kể cả các Kitô hữu, bị phân biệt đối xử, thậm chí bị giết chết vì đức tin của mình. Các tín hữu bị ngăn cản, không được tụ họp tại nơi thờ phượng. Họ bị tù đày. Các nhà thờ bị phá hủy. Vì thế, chúng tôi cùng với Ngài đứng về phía bảo vệ tự do tôn giáo và thúc đẩy đối thoại liên tôn, biết rằng mọi người ở mọi nơi phải có khả năng sống đức tin cách tự do khỏi nỗi sợ hãi và khỏi sự đe dọa.


Thưa Đức Thánh Cha, Ngài nhắc chúng tôi nhớ rằng, chúng ta có bổn phận thánh thiêng bảo vệ hành tinh của chúng ta. Đây là món quà tuyệt với Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng tôi ủng hộ lời mời gọi của Ngài đối với các nhà lãnh đạo thế giới, cho việc nâng đỡ những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trong sự biến đổi khí hậu, cho việc xích lại gần nhau để bảo vệ thế giới của chúng ta cho các thế hệ tương lai.


Với sự Thánh Thiện, trong lời nói và hành động của Ngài, Ngài là tấm gương đạo đức sâu sắc. Và với những lời nhắc nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về bổn phận của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, Ngài đang lôi kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn. Tất cả chúng ta, nhiều lần, có thể kinh nghiệm sự khó chịu, khi chúng ta nhận thấy khoảng cách giữa cung cách sống hằng ngày với những gì chúng ta biết là thật là đúng. Nhưng tôi tin rằng, sự khó chịu ấy là một phúc lành, vì nó chỉ ra cho chúng ta điều gì đó tốt hơn.


Ngài đánh thức lương tâm chúng ta khỏi giấc ngủ mơ; Ngài mời gọi chúng ta vui trong Tin Mừng, và trao tặng chúng ta sự tự tin để đến với nhau, trong khiêm tốn và phục vụ, và theo đuổi một thế giới yêu thương hơn, công bằng hơn, và tự do hơn. Ở đây và trên khắp thế giới, cầu chúc cho thế hệ chúng ta lưu tâm đến lời mời gọi của Ngài để “không bao giờ đứng bên ngoài chuỗi hy vọng sống động này!”
Vì món quà hy vọng lớn lao mà Ngài dành cho nước Mỹ, thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi cám ơn và chào đón Ngài, với niềm vui và lòng biết ơn.


Vinhsơn Vũ Tứ Quyết, S.J chuyển ngữ


**************
Bài diễn văn của ĐTC Phanxicô tại Bạch Ốc


Xin Thiên Chúa chúc phúc cho Hoa Kỳ!


Kính thưa Tổng Thống


Tôi biết ơn sâu xa sự nghinh đón của ngài nhân danh mọi người Hoa Kỳ. Là con trai của một gia đình di dân, tôi rất hạnh phúc được là khách tại đất nước này, mà phần lớn đã được các gia đình như thế xây dựng. Tôi mong đợi những ngày đầy gặp gỡ và đối thoại này, trong đó, tôi hy vọng được lắng nghe, được chia sẻ nhiều hy vọng và giấc mơ của nhân dân Hoa Kỳ.


Trong chuyến viếng thăm của tôi, tôi sẽ được vinh dự nói chuyện với Quốc Hội, nơi, với tư cách người anh em của đất nước này, tôi hy vọng có thể ngỏ những lời khuyến khích những ai được ơn gọi hướng dẫn tương lai chính trị của quốc gia trong sự trung thành với các nguyên tắc lập quốc của họ. Tôi cũng sẽ tới Philadelphia dự Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Tám, để cử hành và hỗ trợ các định chế hôn nhân và gia đình vào thời điểm đang có tính khủng hoảng này của lịch sử văn minh ta.


Kính thưa Tổng Thống, cùng với các đồng công dân Hoa Kỳ của họ, người Công Giáo Hoa Kỳ đang dấn thân cho việc xây dựng một xã hội thực sự khoan dung và có tính bao gồm, cho việc bảo vệ các quyền cá nhân và cộng đồng, cho việc bác bỏ mọi hình thức kỳ thị bất công. Cùng với vô vàn người thiện chí khác, họ cũng đang mong mỏi rằng các cố gắng xây dựng một xã hội công chính và có trật tự khôn ngoan hãy tôn trọng các lưu tâm sâu xa nhất và các quyền tự do tôn giáo của họ. Rằng tự do hãy mãi mãi là một trong các sở hữu qúy giá nhất của Hoa Kỳ. Và, như các hiền huynh của tôi, các giám mục Hoa Kỳ, từng nhắc nhở chúng ta, mọi người, chính trong tư cách công dân tốt, đều được mời gọi phải cảnh giác trong việc duy trì và bảo vệ tự do này chống lại tất cả những gì có thể đe dọa hoặc gây thiệt hại cho nó.


Kính thưa Tổng Thống, tôi thấy được khuyến khích khi ngài đề ra sáng kiến giảm thiểu việc ô nhiễm không khí. Khi chấp nhận sự khẩn trương, thì đối với tôi điều cũng rõ ràng là thay đổi khí hậu là một vấn đề mà chúng ta không thể để lại cho thế hệ tương lai nữa. Khi nói tới việc chăm sóc "căn nhà chung" của chúng ta, chúng ta quả đang sống trong một thời điềm nguy kịch của lịch sử. Tuy nhiên, ta vẫn có thì giờ để thực hiện sự thay đổi cần thiết cho việc đem lại "một sự thay đổi lâu dài và toàn diện, vì chúng ta biết rằng sự vật vốn có thể thay đổi" (Laudato Si’, 13). Sự thay đổi này đòi chúng ta phải thừa nhận một cách nghiêm chỉnh và có trách nhiệm một thứ thế giới ta có thể để lại không những cho con cháu ta, mà còn cho hàng triệu con người đang sống dưới một hệ thống đang coi thường họ. Căn nhà chung của chúng ta vốn từng là một phần của nhóm người bị loại trừ này, nhóm người đang kêu la tới trời và tiếng kêu này hiện đang mạnh mẽ vọng tới các mái ấm ta, các thành phố ta và các xã hội ta. Nói như câu nói nhiều ý nghĩa của Mục Sư Martin Luther King, ta có thể nói rằng chúng ta đã không trả được món nợ hứa hẹn thì nay là lúc ta phải trả nó.


Nhờ đức tin, chúng ta biết rằng "Đấng Tạo Hóa không hề bỏ rơi chúng ta; Người không bao giờ từ bỏ kế hoạch yêu thương của Người cũng như hối hận vì đã dựng nên ta. Nhân loại vẫn có khả năng làm việc với nhau để xây dựng căn nhà chung của mình" (Laudato Si’, 13). Là Kitô hữu, được sự chắc chắn này linh hứng, chúng ta muốn dấn thân cho việc chăm sóc căn nhà chung của ta một cách có ý thức và có trách nhiệm.


Các cố gắng được thực hiện gần đây nhằm hàn gắn các mối liên hệ từng bị gẫy đổ và nhằm mở ra những cánh cửa hợp tác mới trong gia đình nhân loại nói lên những bước đi tích cực dọc theo con đường hòa giải, công lý và tự do. Tôi muốn mọi người thiện chí nam nữ của quốc gia vĩ đại này hỗ trợ các cố gắng của cộng đồng quốc tế nhằm che chở những người yếu thế trong thế giới ta và nhằm kích thích các mô thức phát triển có tính toàn diện và bao gồm, để anh chị em chúng ta khắp thế giới biết được các hồng phúc hòa bình và thịnh vượng mà Thiên Chúa hằng muốn dành cho mọi con cái của Người.


Kính thưa Tổng Thống, một lần nữa, tôi xin cám ơn ngài vì sự nghinh đón của ngài, và tôi mong được hưởng những ngày này trên quê hương ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc cho Hoa Kỳ!


Vũ Van An chuyển ngữ